Hà Nội: 27°C Hà Nội
Đà Nẵng: 29°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 29°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 28°C Thừa Thiên Huế

10 làng nghề truyền thống nổi tiếng đất Cố đô

LNV - Huế, là thủ phủ của tỉnh Thừa Thiên–Huế, nơi đây từng là vùng đất mộng mơ, phong cảnh hữu tình, có chút cổ kính, dịu dàng và trầm lặng nổi tiếng với nhiều công trình văn hóa đặc sắc có bề dày lịch sử. Ngoài ra vùng đất Cố đô nổi tiếng với nhiều làng nghề truyền thống với các sản phẩm thủ công đặc trưng là một trong những nơi lưu giữ các giá trị đó một cách rõ nét.


Làng Hương Thủy Xuân

Nằm cách trung tâm thành phố khoảng 7 km về phía Tây Nam, đó chính là làng hương lớn nhất của Huế - Thủy Xuân. Người dân vùng này sống bằng nghề làm hương cung cấp cho các đại lý trong thành phố. Nhiều năm trở lại đây, khi du lịch phát triển, làng Hương Thủy Xuân trở thành một điểm đến ở Huế thu hút rất nhiều du khách.


(Ảnh: Internet)


Ghé thăm ngôi làng này, bạn sẽ có dịp trầm trồ trước những bông hoa hương muôn sắc bắt mắt và ngập tràn trong mùi hương trầm thơm ngát, được những người thợ tinh tế sắp xếp thành từng, từng chùm, có những tỏa ra như những đóa hoa đẹp rực rỡ. Đặc biệt, sẽ cảm thấy thích thú khi được người dân tạo điều kiện để tìm hiểu và trực tiếp tham gia vào việc làm hương.

Làng tranh làng Sình

Làng Sình nằm cách trung tâm thành phố Huế khoảng 9 km về phía Đông, được nhiều người biết đến với nghề làm tranh dân gian nổi tiếng. Tranh làng Sình gồm hơn 50 đề tài, chia thành 3 nhóm chủ đề chính là tranh nhân vật, tranh đồ vật và tranh súc vật. Tranh này đặc biệt ở chỗ là không dùng bút hay màu để vẽ mà dùng khuôn vẽ, một bức tranh hoàn thiện sẽ cần rất nhiều khuôn màu in lên giấy.


(Ảnh: Internet)


Giấy in tranh là loại giống giấy in báo, màu là mua ở chợ. Khuôn in bằng gỗ mít, họ tự khắc hoặc thuê thợ khắc. Khi làm ra một bức tranh, bản khắc gỗ chỉ giữ vai trò làm khuôn và in màu chính. Những màu sắc còn lại được nghệ nhân vẽ thủ công, tạo nên nét riêng biệt cho những bức tranh nơi đây. Với sự dày công và khéo léo, tranh làng Sình không chỉ được đánh giá cao về nghệ thuật tạo hình tranh dân gian mà còn gắn liền với văn hóa tâm linh của xứ Huế.

Ghé thăm Làng Sình, bạn không những được tận mắt chứng kiến quá trình các nghệ nhân làm tranh mà còn phần nào hiểu thêm về văn hóa tín ngưỡng cổ sơ và tư tưởng người Việt cổ.

Làng nghề đúc đồng

Làng nghề đúc đồng ở Huế vốn được biết đến với cái tên “Phường Đúc”. Phường Đúc ở Huế có nguồn gốc từ tổ chức của những thợ thuyền cùng nghề đúc dưới thời Chúa Nguyễn. Hai làng nghề đúc đồng lớn nhất và có danh tiếng nhất là Kinh Nhơn và Bổn Bộ.

Khi Chúa Trịnh và Tây Sơn đánh chiếm Phú Xuân thì các Công tượng đúc đồng bị tan rã. Riêng chỉ có họ Nguyễn ở Kinh Nhơn vẫn tiếp tục nghề đúc của cha ông. Từ những lò đúc của các anh em trong dòng họ Nguyễn, nghề đúc vẫn được duy trì và phát triển cho tới ngày nay.

Đến thăm Phường Đúc, bạn có cơ hội chứng kiến công đoạn của người thợ đúc tạo nên các sản phẩm bằng đồng.

Làng nghề kim hoàn Kế Môn

Làng kim hoàn Kế Môn thuộc xã Điền Môn, huyện Phong Điền, nằm cách trung tâm thành phố Huế tầm 40 km hướng Đông Bắc. Nghề kim hoàn ở nơi đây là nghề gia công cổ truyền đồ trang sức, trang trí bằng chất liệu vàng hoặc bạc, bao gồm: ngành trơn – các sản phẩm đơn giản, không chạm trổ nhiều, ngành đậu – thường làm các hình hoa văn kỷ hà để gắn lên mặt sản phẩm và ngành chạm – chạm trổ các hình và hoa văn trên các sản phẩm.


(Ảnh: Internet)


Các sản phẩm kim hoàn do người thợ Kế Môn chế tác rất đa dạng, từ mẫu mã đến kiểu dáng, như nhẫn, bông tai, khuyên, xuyến, vòng, kiềng, lắc, dây chuyền… được chạm trổ tinh xảo, có nạm ngọc hoặc đá sa-phia óng ánh rất bắt mắt.

Làng nghề Nón lá

Nón là một vật dụng dùng để che nắng che mưa đặc trưng của người người Việt. Từ lâu hình ảnh chiếc nón lá đã gắn liền với hình ảnh người Việt Nam, nó tuy không nằm trong những biểu tượng quốc gia nhưng chỉ cần nhìn thấy chiếc nón thì ngay lập tức người ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh đất nước Việt Nam.

Trên đất nước Việt Nam chúng ta hầu như ở địa phương nào cũng có nghề làm nón. Những chiếc nón được sản xuất ra với mục đích đội đầu che nắng che mưa, nhưng ở mỗi vùng miền lại có những đặc trưng riêng trong cách sản xuất nhưng có thể nói Huế là trung tâm sản xuất nón lá của cả nước.

Nghề làm nón lá hình thành và phát triển ở Huế từ hàng trăm năm nay, với rất nhiều làng nón nổi tiếng như: Dạ Lê, Phú Cam, Đốc Sơ, Triều Tây, Kim Long, Sịa... Ngày nay, các làng nghề nổi tiếng như Tây Hồ Xã Phú Hồ, Mỹ Lam xã Phú Mỹ huyện Phú vang, Phú Cam, Phước Vĩnh, Đốc Sơ, Triều Tây, Hương Sơ, TP Huế cho ra thị trường hàng triệu chiếc nón, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của người dân, mà còn là món quà lưu niệm đặc sắc cho du khách bốn phương khi đến Huế.

Nón lá Huế, đặc biệt là nón bài thơ, nó không chỉ là chiếc nón đơn thuần mà là một tác phẩm nghệ thuật thực sự. Để có được chiếc nón ưng ý, các nghệ nhân làm nón Huế phải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ, đòi hỏi sự cần mẫn, khéo léo của người thợ. Từ chọn khung, uốn vành, lợp lá, cắt hoa văn, đến chằm hoàn thiện chiếc nón và cuối cùng là đánh bóng bảo quản…Có lẽ vì thế mà nón Huế rất được nhiều du khách ưu chuộng.

Du lịch phát triển mạnh ở Huế, nón lá trở thành mặt hàng lưu niệm mang nét văn hóa đặc sắc của Huế được du khách ưa chuộng. Rất nhiều du khách đã về tận các làng nón để được tận mắt chứng kiến và tham gia vào các công đoạn của nghề làm nón. Không ít người đã thực sự bất ngờ và thích thú khi được người thợ nón lưu ảnh, tên của mình trên chiếc nón bài thơ mang về làm kỷ niệm.

Nón lá là sản phẩm thủ công mỹ nghệ đầu tiên được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp chứng nhận bảo hộ chỉ dẫn địa lý vào tháng 8/2010.

Làng nghề gốm Phước Tích


(Ảnh: Internet)


Phước Phú thuộc xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, do hai thôn Phước Tích và Phú Xuân nhập lại.

Tên xã Phong Hòa xưa là xã Phong Lâu (do ở bên bờ sông Ô Lâu). Làng Phước Tích tiện cho việc thông thương bằng đường thủy để khai thác nguyên liệu và chở sản phẩm gốm đi bán. Quanh làng không có đất sét và rất hiếm củi, nhưng theo các gia phả và ký ức người già thì suốt từ đời Minh Mạng đến đời Khải Định, hàng tháng làng phải dâng nộp triều đình Huế 30 chiếc “om ngự” làm nồi nấu cơm cho vua, ăn xong vứt bỏ. Do đó làng được đặc ân đi các nơi khai thác những gì cần cho nghề: vào rừng ở truông Đôộc (Đôộc: gốm) (nay thuộc Mỹ Xuyên cùng xã) lấy củi, sang cồn Gióng (nay xã Hải Chánh) sau sang Dương Khánh (nay xã Hải Dương) huyện Hải Lăng, Quảng Trị lấy đất sét. Sản phẩm truyền thống “độc Phước Tích” có lu (chum), ghè, thạp, thống, om (niêu), bùng binh (ống tiết kiệm), tu huýt (còi) và ông táo nung chín thành sành, không có thấm nước. Những sản phẩm trên được chở bán từ Nghệ An vào đến Nam Bộ. Các sản phẩm gốm không tráng men như lọ hoa...cũng đã được bán sang Nhật Bản và được sử dụng trân trọng trong các buổi tiệc trà của Nhật.

Ngày nay, tuy có thời kỳ đã vắng dần hình ảnh thân quen của mặt hàng độc Phước Tích, nhưng khả năng kế tục truyền thống làm gốm vẫn là một quyết tâm cao. Phước Tích vẫn là ngôi làng được nhiều người biết đến, bởi sản phẩm thủ công của họ vẫn là vật gần gũi, thân quen với mọi người.

Làng nghề thếp vàng, sơn mài Tiên Nộn

Cùng với kiến trúc, điêu khắc, sơn mài có mặt khắp nơi: từ các đình chùa làng xã, đến đền đài lăng tẩm, cung điện của vua chúa đều được sơn thếp vàng son lộng lẫy. Các vật dụng từ trong dân dã cho đến các gia đình quyền quý, các nhà thờ họ như: Hoành phi, câu đối, đáp, hộp, kiệu võng, án thư, sạp tử đều được sơn mài tô điểm trang trọng.

Nguồn gốc của sơn mài Huế là ở các làng Triều Sơn, Địa Linh, Tiên Nộn. Làng Tiên Nộn ( xã Phú Mậu - huyện Phú Vang) cách Huế 10km, nơi đây là làng nghề sơn mài truyền thống Huế. Vua Khải Định từng giao trách nhiệm cho gia đình cụ Nguyễn Đức Bùi phục chế sơn son thếp vàng ở Đại Nội Huế.

Trong kỹ thuật làm sơn ta, chất liệu chính là sơn sống được lấy từ cây sơn của vùng Phú Thọ. Để chế ra các màu, người thợ phải đánh sơn rất vất vả, nếu ai không quen sẽ bị phù mặt. Người ta lấy nhựa trắng từ cây sơn về, để vài ba tháng trong thùng gỗ hoặc tre, lúc này sơn chia thành 3 lớp: lớp 1 gọi là “dọi nhất” (không bao giờ khô) dùng để tăng độ của sơn; lớp 2 gọi là “dọi nhì” dùng để đánh sơn cánh dán, sơn then; lớp 3 gọi là “sơn thịt” dùng để vốc, để bó, để hom và dùng để trát thuyền. Để tạo sơn cánh dán, dùng chậu gỗ và mỏ vầy đánh sơn trong 48g sau đó chế với nhựa thông tươi với tỷ lệ vừa phải; để tạo ra màu sơn đen (còn gọi là sơn then) người ta đánh trong chậu gang và mỏ vầy bằng sắt.

Sơn mài truyền thống Huế có thể chia thành ba loại: sơn quang, sơn son thếp vàng và sơn mài đắp nổi. Gam màu cổ truyền và căn bản của những tác phẩm sơn mài là cánh dán, đỏ, đen, màu của vàng, bạc nguyên chất dưới dạng bột hay được dát mỏng thành lá. Về sau, hệ màu này được bổ sung thêm sắc độ xanh, xám, màu trắng vỏ trứng, màu hồng vỏ cua, vỏ trai, vỏ ốc…

Ngày nay, làng Tiên Nộn không còn người làm nghề sơn mài nhưng sức sống của nghề sơn mài vẫn được duy trì và phát triển như là một bộ môn nghệ thuật độc đáo của Huế. Do vật liệu bằng vàng thật rất đắt nên những người làm nghề không còn sơn son thếp vàng các vật dụng hoành phi, câu đối, đồ thờ tự theo đúng kỹ thuật sơn mài truyền thống. Tại trường Đại học Nghệ thuật Huế, để giữ gìn kỹ thuật làm sơn mài truyền thống Huế, nhà trường đã thành lập bộ môn trang trí truyền thống nhằm dạy cho sinh viên về kỹ thuật sơn mài của Huế. Để hoàn thành một tác phẩm nghệ thuật thì phải sơn và mài 5 đến 7 lần. Sau khi vẽ chồng hoặc tráng lên các lớp sơn, người ta tiến hành mài xuống và bức tranh sẽ hoàn thành ở tầng sâu cho hiệu quả tốt nhất.

Sức sống của sơn mài truyền thống Huế được thể hiện mạnh mẽ ở những cách tân về đề tài, mẫu mã, công năng sử dụng... Các họa sĩ đã mạnh dạn sáng tác những tác phẩm sơn mài mang ý tưởng mới, phục vụ cho đời sống hiện đại, sơn mài còn xuất hiện trong đồ dùng làm trang sức, dây đeo cổ, đeo tay, đồ mỹ nghệ ...

Làng nghề Điêu khắc gỗ Mỹ Xuyên

Mỹ Xuyên thuộc huyện Phong Ðiền, cách Huế khoảng 40km về phía Bắc. Vào giữa thế kỷ XIX, nơi đây đã tập trung những người thợ chạm tài hoa. Họ đã chạm trổ nhiều công trình nổi tiếng cho triều đình và nhân dân.


(Ảnh: Internet)


Những sản phẩm mỹ nghệ của họ làm cho nhiều công trình kiến trúc và đồ dùng cao cấp đạt tới giá trị tuyệt phẩm. Trước kia làm ăn cá thể, những người thợ điêu khắc với đồ nghề gọn nhẹ để trong cái tráp nhỏ, họ xách theo đến những nơi được mời để hóa thân cho những đoạn ngà voi và gỗ qúy, thành những đồ vật bền và có cuộc sống vượt cả thời gian. Nghề điêu khắc ở đây không có trường dạy. Những người thành thạo trực tiếp kèm cặp người học nghề qua thực hành.

Nhiều sản phẩm của Mỹ Xuyên đã giành huy chương vàng, bạc tại các triển lãm trong tỉnh và toàn quốc. Thị trường của họ rất rộng, có mẫu hàng phải ký hợp đồng hàng nghìn sản phẩm. Họ chạm người, chạm thú, chạm đồ vật... cái gì cũng sống động. Xưa kia vật liệu chính là ngà voi, ngày nay thường là gỗ rất hiếm quí. Từ thớ gỗ vô tri họ đã làm ra những rồng, phượng, ngựa, voi, mèo... những thuyền rồng, anh hùng tương ngộ... về những ông Di Lặc, tiên đánh cờ, người đi câu, người úp nơm, người cầm chùi... cả những anh hùng như Phù Ðổng Thiên Vương... Kỹ thuật chạm lọng, chạm chìm, chạm nổi, chạm xếp lớp, chạm sâu, chạm cạn, chạm chấm phá, chạm khảm (gỗ trên gỗ)...là những nét độc đáo của thợ Mỹ Xuyên. Phần lớn những ngôi nhà Rường nổi tiếng của Huế có sự tham gia của người thợ Mỹ Xuyên trong phần chạm khắc. Mỗi đề tài lại có nhiều cách thể hiện, cũng là ngựa của một nơi sản xuất mà có hàng chục dáng hình khác nhau, con nào cũng sống động lạ thường.

Làng nghề Hoa giấy Thanh Tiên

Làng Thanh Tiên thuộc xã Phú Mậu, Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, làng có vị trí khá đặc biệt, phía Bắc giáp thôn Mậu Tài, Nam giáp Thế Vinh, Đông giáp Vọng Trì, Đông Tây giáp sông Hương, cách trung tâm thành phố 10 km. Làng vốn có truyền thống làm nghề nông, tuy nhiên, vào tháng chạp, Thanh Tiên lại rộn rã với nghề làm hoa giấy. Sách Đại Nam nhất thống chí ghi Nghề hoa giấy Thanh Tiên trong danh mục thống kê của các nghề thủ công từ thế kỷ XVI-XIX.

Sản phẩm hoa giấy thường được trang trí ở những nơi thờ tự trong nhà, các miếu, trang bà, am, bàn thờ ông địa, táo quân, thần bếp... Ưu điểm của hoa giấy Thanh Tiên là: phong phú về màu sắc, hình thức đẹp, để được lâu lại thể hiện sự trang nghiêm, một năm chỉ thay một lần vào dịp tết nên nó dễ được chấp nhận và tồn tại dài lâu. Cũng chính những đặc điểm đó mà thời gian sản xuất chính thức của nghề thủ công này chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn vào cuối năm, chủ yếu vào tháng Chạp. Ngày nay, loại hoa sen đã được phục hồi, quanh năm sản xuất, trở thành loại hoa trang trí độc đáo. Một bó hoa sen gồm hoa, lá, nụ đứng ở tầm xa khoảng vài mét mà người ta cứ ngỡ tưởng là bó hoa sen thật và Hoa sen giấy Thanh Tiên, biểu tượng đặc trưng của văn hóa Việt Nam đã sang Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Úc qua các lượt khách du lịch khi đến Huế.

Với sự phong phú và đa dạng, hoa giấy Thanh Tiên đã đáp ứng được nhu cầu về tín ngưỡng dân gian và ngày nay cả nhu cầu trang trí nội thất của người dân xứ Huế.

Liễn làng Chuồn

Chuồn là tên nôm của làng An Truyền, xã Phú An, huyện Phú Vang, là làng nông nghiệp nhưng có nhiều người học cao đỗ đạt làm quan to trong triều. Tính hiếu học đã ảnh hưởng đến nghề làm liễn: Viết chữ đẹp, biết cái đẹp của nghệ thuật viết chữ, và phát huy một lối chơi sang treo liễn ngày Tết hay để tặng mừng nhau. Ở đây rất nhiều gia đình biết in liễn Tết, họ tập trung làm từ tháng mười đến giáp Tết, mỗi gia đình trong vụ liễn in từ vài trăm đến vài nghìn bộ. Cho đến nay, liễn Chuồn vẫn phát triển và cần khuyến khích.

Giấy in liễn là loại giấy để in báo, mua về phải nhuộm các màu đỏ, vàng hoặc xanh. Còn màu là các phẩm bột mua ở chợ về hòa với hồ cho dính, cũng có dùng bột điệp nhưng không để nguyên màu trắng ánh mà pha thêm màu xanh dương theo tỷ lệ 10 điệp + 1 dương để có màu sáng dịu. Do có hai đoạn liễn với kích thước khác nhau nên có hai lối in ngửa hay úp ván. Liễn bông (hoa) mỗi bộ gồm có bốn con (bức) toàn cảnh họa tiết dài như bộ tranh tứ quý. Liễn chữ gồm một đại tự và câu đối. Đại tự là chữ to cần ván lớn.

Liễn được treo trên tường hay trên cột, chạy dọc như theo câu đối hay theo tranh tứ quý. Riêng đại tự có thể treo riêng hoặc giữa hai liễn câu đối như bức hoành cầu phúc. Đấy là lối chơi đẹp.

Đức Bảo TH

Tin liên quan

Tin mới hơn

Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

LNV - Bờ Nam sông Cổ Chiên, một nhánh chính của sông Cửu Long thuộc tỉnh Vĩnh Long, từ lâu đã nổi tiếng với những lò gốm đỏ rực lửa. Trên mảnh đất sét nhiễm phèn nặng, những người phụ nữ cần mẫn ngày đêm nhào nặn từng thớ đất vô tri thành những sản phẩm gốm độc bản, vừa nuôi sống gia đình vừa giữ gìn hồn quê qua bao thế hệ.
Gìn giữ nghề truyền thống tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn

Gìn giữ nghề truyền thống tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn

LNV - Trong nhịp sống sôi động của kinh tế thị trường, không ít làng nghề truyền thống đứng trước nguy cơ bị lãng quên. Thế nhưng, nhờ sự đồng hành của cộng đồng, chính quyền địa phương và sự sáng tạo của người dân, nhiều nghề cổ truyền không chỉ được gìn giữ mà còn trở thành bệ phóng phát triển kinh tế, góp phần xây dựng nông thôn mới bền vững.
Gốm Việt Nam: Nhu cầu thị trường nội địa và những cơ hội phát triển đột phá

Gốm Việt Nam: Nhu cầu thị trường nội địa và những cơ hội phát triển đột phá

LNV - Nghệ thuật gốm đã in sâu vào bản sắc văn hóa Việt Nam từ hàng nghìn năm trước, là một phần không thể thiếu trong đời sống, tín ngưỡng và thẩm mỹ của người Việt. Từ những chiếc bình gốm Phùng Nguyên, trống đồng Đông Sơn cho đến những chiếc bình gốm hoa lam tinh xảo của Chu Đậu hay bát đĩa gốm Bát Tràng quen thuộc, gốm sứ không chỉ là vật dụng mà còn là biểu tượng của sự khéo léo, óc sáng tạo và tinh thần lao động bền bỉ của người Việt Nam.
Làng hoa Vạn Thành không ngừng đổi mới và hội nhâp

Làng hoa Vạn Thành không ngừng đổi mới và hội nhâp

LNV - Làng hoa Vạn Thành được hình thành từ những năm 50 của thế kỷ XX bởi người dân từ Hà Nam di cư vào Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Nhờ điều kiện khí hậu mát mẻ và đất đai màu mỡ, Làng hoa Vạn Thành đã phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong trung tâm sản xuất hoa lớn tại Đà Lạt.
Đắk Lắk: Phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm

Đắk Lắk: Phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm

LNV - Đắk Lắk phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm, mở rộng quy mô sản xuất, hướng đến việc kết hợp phát triển du lịch cộng đồng và trải nghiệm, giúp du khách có thể khám phá quy trình làm muối truyền thống.
Nuôi ong dưới tán rừng ngập mặn

Nuôi ong dưới tán rừng ngập mặn

LNV - Gắn bó với nghề nuôi ong đã gần 10 năm, bắt đầu từ vài chục tổ ong ban đầu, đến nay anh Trần Văn Sửu đã mở rộng lên khoảng 500 tổ, mỗi năm mang lại thu nhập ổn định khoảng 200 triệu đồng – con số không nhỏ đối với một hộ dân vùng ven biển.

Tin khác

Trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu ở Chợ nổi Cái Răng

Trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu ở Chợ nổi Cái Răng

LNV - Nhiều du khách trong và ngoài nước thích thú trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu tại chợ nổi Cái Răng.
Phát triển kinh tế làng nghề tạo đòn bẩy xây dựng nông thôn mới

Phát triển kinh tế làng nghề tạo đòn bẩy xây dựng nông thôn mới

LNV - Thành phố Hà Nội hiện có 1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó 337 nghề truyền thống đã được công nhận. Các làng nghề đã giúp nâng cao thu nhập, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động. Việc phát triển làng nghề không chỉ giữ gìn bản sắc truyền thống, mà còn tạo đòn bẩy trong xây dựng nông thôn mới.
15 cá nhân ở xã Bát Tràng được đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội

15 cá nhân ở xã Bát Tràng được đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội

LNV - Trong 2 ngày 9 và 10-9, Đoàn thẩm định của Hội đồng thành phố Hà Nội về xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ năm 2025 đã tổ chức thẩm định thực tế tại cơ sở các cá nhân có hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội năm 2025 tại xã Bát Tràng.
Ký ức Trung thu cổ "hồi sinh" bằng nghệ thuật giấy dó

Ký ức Trung thu cổ "hồi sinh" bằng nghệ thuật giấy dó

LNV - Trung thu không chỉ là Tết của thiếu nhi, mà còn là ký ức văn hóa của nhiều thế hệ người Việt. Khi đèn lồng nhựa và ánh sáng điện tử ngày càng phổ biến, những giá trị xưa dần phai nhạt. Triển lãm “Lãm” xuất hiện như một nhịp cầu, đưa con người trở về với mùa trăng cổ tích bằng những chiếc đèn giấy dó mộc mạc, bền vững và thấm đẫm hồn Việt.
Giữ hồn quê và nâng tầm kinh tế ở xã Bình Minh

Giữ hồn quê và nâng tầm kinh tế ở xã Bình Minh

LNV - Nằm ở phía Tây Nam Hà Nội, xã Bình Minh đang nổi lên như một điểm sáng về phát triển nông nghiệp sinh thái kết hợp với làng nghề truyền thống.
Làng nghề chế biến cá khô Gia Thuận: Giữ hồn truyền thống, mở hướng phát triển bền vững

Làng nghề chế biến cá khô Gia Thuận: Giữ hồn truyền thống, mở hướng phát triển bền vững

LNV - Tại xã Gia Thuận, tỉnh Đồng Tháp, bên cạnh những cánh đồng lúa xanh bát ngát và những chuyến tàu đánh bắt hải sản tất bật, làng nghề chế biến cá khô đã hình thành và phát triển từ nhiều năm nay, trở thành một trong những ngành nghề mũi nhọn góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương. Không chỉ là nét văn hóa truyền thống, nghề chế biến cá khô còn đang mở ra những cơ hội mới về việc làm, nâng cao thu nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng.
Giữ hồn núi rừng qua đôi tay già làng Cơ Tu

Giữ hồn núi rừng qua đôi tay già làng Cơ Tu

LNV - Trong ngôi nhà sàn ba gian giữa núi rừng, già Bhling Bloó (70 tuổi, thôn Bhơ Hôồng, xã Sông Kôn, TP Đà Nẵng) vẫn cần mẫn bên bó tre, mây. Với ông, đan lát không chỉ là kế sinh nhai mà còn là cách để giữ lấy “cái gốc” của người Cơ Tu giữa nhịp sống hiện đại.
Giọt mắm Nam Ô và câu chuyện từ làng biển trăm năm tuổi

Giọt mắm Nam Ô và câu chuyện từ làng biển trăm năm tuổi

LNV - Giữa nhịp sống hiện đại của thành phố biển Đà Nẵng, làng cổ Nam Ô vẫn lặng lẽ giữ trong mình những giá trị văn hóa và nghề truyền thống hơn 700 năm tuổi. Nơi đây không chỉ nổi tiếng với cảnh quan thiên nhiên đặc sắc, những dấu tích lịch sử gắn với công chúa Huyền Trân, mà còn được biết đến là cái nôi của nghề làm nước mắm – một di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, niềm tự hào của cư dân miền biển.
Khát vọng phát triển từ làng nghề truyền thống đến trung tâm công nghiệp

Khát vọng phát triển từ làng nghề truyền thống đến trung tâm công nghiệp

LNV - Trong bối cảnh đô thị hóa và hội nhập, Tây Phương đang từng bước đổi mới, phát huy thế mạnh làng nghề gắn với phát triển du lịch, đồng thời mở rộng không gian công nghiệp và dịch vụ, hướng tới trở thành một trung tâm kinh tế - văn hóa quan trọng của Thủ đô.
Giữ hồn làng nghề bánh đa nem trăm năm tuổi ở Thổ Hà

Giữ hồn làng nghề bánh đa nem trăm năm tuổi ở Thổ Hà

LNV - Nằm ven sông Cầu hiền hòa, làng Thổ Hà (phường Vân Hà, tỉnh Bắc Ninh) từ lâu đã nổi tiếng khắp trong và ngoài nước với nghề làm bánh đa nem. Nghề đã tồn tại hàng trăm năm, trở thành nét văn hóa đặc trưng và là niềm tự hào của người dân địa phương.
Sức sống mới cho thủ công mỹ nghệ Thủ đô từ thị trường nội địa

Sức sống mới cho thủ công mỹ nghệ Thủ đô từ thị trường nội địa

LNV - Thủ công mỹ nghệ từ lâu được coi là một trong những ngành nghề truyền thống đặc sắc nhất của Thủ đô Hà Nội. Không chỉ mang đậm giá trị văn hóa, lịch sử, sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn góp phần quan trọng trong cơ cấu kinh tế nông thôn và xuất khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường quốc tế nhiều biến động, nhu cầu tiêu dùng trong nước đang trở thành một “nguồn lực mềm” mạnh mẽ, mở ra sức sống mới cho ngành thủ công mỹ nghệ Thủ đô.
An Giang: Nơi tiếng búa vang vọng cả đời người

An Giang: Nơi tiếng búa vang vọng cả đời người

LNV - Suốt hàng chục năm qua, nghề chẻ đá tại ấp Hòn Sóc, xã Hòn Đất vẫn được người dân nơi đây duy trì như một phần không thể thiếu trong cuộc sống mưu sinh. Mỗi buổi sáng, cả bãi đá rộng lớn vang lên âm thanh đặc trưng của làng nghề: tiếng máy cắt xèng xèng, tiếng búa tạ nện vào nêm thép cắc cắc, hòa quyện thành nhịp điệu lao động cần cù.
Bánh gio - món ăn truyền thống của người Tày

Bánh gio - món ăn truyền thống của người Tày

LNV - Giữa đại ngàn xanh thẳm của vùng cao Đông Bắc, người Tày vẫn gìn giữ một món bánh giản dị nhưng đậm đà bản sắc – bánh gio. Bánh được làm từ gạo nếp thơm ngâm nước tro vỏ cây, gói trong lá chít và nấu bằng lửa nhỏ. Bánh gio mang hương vị thanh mát, mộc mạc, gắn liền với ký ức mỗi mùa Tết, ngày rằm. Giữa vòng xoay hiện đại, bánh gio vẫn giữ nguyên hương vị truyền thống như cách người Tày gìn giữ bản sắc dân tộc mình một cách tự nhiên, bền bỉ và đầy tự hào.
Nâng tầm đặc sản quê hương

Nâng tầm đặc sản quê hương

LNV - Với khát vọng nâng tầm giá trị đặc sản quê hương từ nguồn nguyên liệu có sẵn, nhiều hộ gia đình đã tạo nên các sản phẩm độc đáo.
Lưu giữ giá trị văn hóa làng nghề mộc Chợ Thủ

Lưu giữ giá trị văn hóa làng nghề mộc Chợ Thủ

LNV - Khi nhắc đến đồ gỗ mỹ nghệ truyền thống là ai cũng biết làng nghề mộc Chợ Thủ ở tỉnh An Giang. Làng nghề mộc Chợ Thủ từ lâu đã trở thành một thương hiệu đồ gỗ uy tín trên thị trường.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Bà Rịa – Vũng Tàu: Khuyến công tạo động lực cho phát triển công nghiệp bền vững

Bà Rịa – Vũng Tàu: Khuyến công tạo động lực cho phát triển công nghiệp bền vững

LNV - Khuyến công gắn với định hướng phát triển kinh tế – xã hội Trong nhiệm kỳ 2020 – 2025, Bà Rịa – Vũng Tàu xác định công nghiệp là trụ cột chủ lực, chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế của tỉnh. Để hiện thực hóa mục tiêu chuyển dịch cơ cấu từ khai khoáng san
Trường THCS Nguyễn Trường Tộ- Điểm sáng của ngành giáo dục Thủ đô

Trường THCS Nguyễn Trường Tộ- Điểm sáng của ngành giáo dục Thủ đô

LNV - Trường THCS Nguyễn Trường Tộ là ngôi trường thuộc TOP trường THCS chất lượng tốt ở Hà Nội. Để đạt được những thành tích đáng tự hào ấy, Trường THCS Nguyễn Trường Tộ luôn chú trọng đổi mới việc dạy và học với phương châm ”Lấy học sinh làm trung tâm”,
Nâng tầm Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc

Nâng tầm Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc

LNV - Những ngày này, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Hải Phòng đang tất bật chuẩn bị cho Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc. Năm nay, lễ hội mang ý nghĩa đặc biệt hơn khi Đền Kiếp Bạc và Chùa Côn Sơn nằm trong quần thể di tích, danh thắng được UNESCO côn
Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

LNV - Bờ Nam sông Cổ Chiên, một nhánh chính của sông Cửu Long thuộc tỉnh Vĩnh Long, từ lâu đã nổi tiếng với những lò gốm đỏ rực lửa. Trên mảnh đất sét nhiễm phèn nặng, những người phụ nữ cần mẫn ngày đêm nhào nặn từng thớ đất vô tri thành những sản phẩm g
Trám đen Hoàng Vân – “vàng đen” trên đất Bắc Ninh

Trám đen Hoàng Vân – “vàng đen” trên đất Bắc Ninh

LNV - Nằm ở vùng trung du giàu truyền thống cách mạng, xã Hoàng Vân (huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Ninh) không chỉ được biết đến bởi những dấu ấn lịch sử, mà còn nổi bật với một loại cây đặc sản mang lại giá trị kinh tế cao: trám đen. Cứ vào độ cuối tháng 6 đế
Giao diện di động