Hà Nội: 19°C Hà Nội
Đà Nẵng: 23°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 32°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 18°C Thừa Thiên Huế

Thực trạng và giải pháp thương mại điện tử và kinh doanh trực tuyến của các cơ sở công nghiệp nông thôn tại các làng nghề hiện nay

LNV - Thương mại điện tử, kinh doanh trực tuyến dần dần đã trở thành những hoạt động cần thiết tại các cơ sở công nghiệp nông thôn, nhất là tại các làng nghề.


Những năm gần đây, “Thương mại điện tử” (TMĐT) đã không còn là khái niệm xa lạ trong xã hội hay một lĩnh vực mới mẻ tại nước ta. Có thể coi năm 2020, đại dịch COVID-19 đã mang đến nhiều biến động đối với nền kinh tế và sự tăng trưởng bứt phá của TMĐT đã góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường tiềm năng nhất khu vực ASEAN. Tuy nhiên, song hành với những cơ hội phát triển thì TMĐT ở Việt Nam nhất là trong các cơ sở công nghiệp nông thôn cũng gặp không ít những thách thức trong việc xây dựng thị trường TMĐT lành mạnh, bền vững.

Thị trường TMĐT đang ngày càng rộng mở với nhiều mô hình, chủ thể tham gia, các chuỗi cung ứng cũng đang dần thay đổi theo hướng hiện đại hơn khi có sự hỗ trợ từ số hóa và công nghệ thông tin. Các cơ sở công nghiệp nông thôn tại các làng nghề đang gặp nhiều khó khăn để xây dựng kênh phân phối mới nhằm vượt qua khó khăn, tiếp cận cơ hội mới từ nhu cầu thị trường trên cơ sở làm thay đổi thói quen mua hàng của người tiêu dùng, chuyển từ thói quen mua hàng truyền thống sang mua hàng qua TMĐT.
Theo Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam năm 2020 được Cục Thương mại và điện tử số (Bộ Công thương) phát hành, doanh thu TMĐT năm 2019 bao gồm doanh thu tất cả hàng hoá, dịch vụ bán qua kênh TMĐ (trừ các giao dịch liên quan đến lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm, trò chơi trực tuyến) đạt 10,08 tỷ USD, chiếm 4,9% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong cả nước. Số lượng người tham gia mua sắm trực tuyến cũng tăng cao, năm 2019 ước tính là 44,8 triệu người, tăng hơn so với năm 2018 và 2015 lần lượt là 5,8 và 14,5 triệu người. Trong giai đoạn cao điểm của dịch Covid-19 (từ tháng 2 tới hết tháng 4/2020) kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề, nhiều ngành nghề bị ảnh hưởng trực tiếp như xuất nhập khẩu, du lịch..., trong đó xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các cơ sở công nghiệp làng nghề cũng bị ảnh hưởng trầm trọng. Tuy vậy doanh thu từ mua sắm online qua các trang TMĐT của một số doanh nghiệp tăng từ 20 – 30%. Theo dự báo của Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam, năm 2020 tốc độ tăng trưởng tiếp tục duy trì trên 30% và quy mô TMĐT cả nước sẽ vượt con số 15 tỉ USD. Nếu tốc độ tăng trưởng có thể duy trì 30% thì đến năm 2025, Việt Nam sẽ xếp thứ thứ ba ở Đông Nam Á, sau Indonesia (100 tỷ USD) và Thái Lan (43 tỷ USD).

Tuy nhiên, hiện nay, ở các cơ sở công nghiệp nông thôn, các hoạt động TMĐT còn chưa thực sự phát triển, việc mua hàng trực tuyến hay thực hiện các giao dịch trên internet còn mới lạ với nhiều chủ cơ sở, điều này khiến cho hoạt động TMĐT trong các cơ sở công nghiệp nông thôn còn nhiều hạn chế. Có thể nhận thấy nguyên nhân tập trung vào các điểm chính như sau:

Thứ nhất: Nhận thức, hiểu biết của người tiêu dùng chưa đủ, cũng như người tiêu dùng chưa quen đối với việc mua sắm hay sử dụng dịch vụ trực tuyến.

Thứ hai: Về hạ tầng, dịch vụ trong thanh toán, vận chuyển chưa thực sự thuận tiện, bảo đảm tối đa khiến người tiêu dùng có tâm lý e ngại khi mua hàng online, ví dụ như việc sử dụng thẻ thanh toán chẳng hạn, người dân nông thôn còn quá xa lạ và thanh toán online gần như không có trong suy nghĩ của họ.

Thứ ba: các dịch vụ TMĐT chưa chú trọng phát triển tại các vùng nông thôn, có thể là do quy mô chưa đủ tầm để tiến đến một thị trường quá rộng. Điều đó đòi hỏi một quyết tâm cực kỳ lớn cũng như là nguồn lực, khả năng đầu tư và cần phải có thêm thời gian.

Để tiếp tục phát triển TMĐT, khuyến khích các cơ sở công nghiệp nông thôn ở các làng nghề đẩy mạnh triển khai ứng dụng các phần mềm trên nền tảng công nghệ mới của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, cần chú trọng thực hiện các giải pháp sau đây:

Thứ nhất: Nâng cao năng lực quản lý và tổ chức hoạt động TMĐT trong đó, thực hiện nhiều nhóm giải pháp hỗ trợ như: Đào tạo nâng lực cho đội ngũ thực thi, nâng cao năng lực ứng dụng TMĐT, cung cấp trực tuyến các dịch vụ công liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong các thủ tục hành chính, đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, phối hợp liên ngành trong đấu tranh chống các hành vi gian lận thương mại, buôn lậu, hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và cạnh tranh không lành mạnh trong TMĐT.

Thứ hai: Hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển TMĐT trong bối cảnh CMCN 4.0. Bởi đây, là một lĩnh vực mới phát triển tại Việt Nam, là sự kết hợp giữa công nghệ và thị trường, giữa yếu tố thực và ảo…Vì vậy, cần tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện chính sách, văn bản quy phạm pháp luật theo hướng tạo điều kiện, khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động ứng dụng TMĐT và các mô hình kinh doanh mới trên nền tảng công nghệ số.

Thứ ba: Tiếp tục xây dựng thị trường và nâng cao lòng tin người tiêu dùng trong TMĐT, thông qua nhiều hình thức, như: Tuyên truyền, quảng cáo, tổ chức hội nghị, sự kiện,…Từ đó, tăng cường khả năng nhận biết và ứng phó của người tiêu dùng với những hành vi tiêu cực trong TMĐT, đồng thời giúp người dân và doanh nghiệp hiểu được những mặt tích cực mà công nghệ cũng như TMĐT mang lại, giúp thay đổi thói quen tập quán kinh doanh và tiêu dùng theo phương thức hiện đại hơn, hiệu quả hơn. Đẩy mạnh việc hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu thông qua TMĐT xuyên biên giới…nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp quảng bá sản phẩm, định vị thương hiệu, kết nối khách hàng và tìm kiếm thị trường để đa dạng hóa các kênh xuất khẩu tại các thị trường nước ngoài, mở rộng mạng lưới kinh doanh.

Thứ tư: Tăng cường năng lực các hệ thống hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ cho TMĐT. Trong đó, đẩy mạnh việc hoàn thiện, đồng bộ và nâng cao hạ tầng công nghệ nói chung sẽ giúp bảo mật thông tin trên mạng được an toàn, giúp khách hàng yên tâm khi giao dịch trực tuyến, từng bước thay đổi nhận thức và thói quen người tiêu dùng đối với việc thanh toán không dùng tiền mặt…

Thứ năm: Đẩy mạnh ứng dụng TMĐT hỗ trợ hàng xuất khẩu, mở rộng tiêu thụ cho hàng hóa nội địa và thúc đẩy phát triển TMĐT tại các địa phương, như: Xây dựng gian hàng quốc gia trên một số sàn TMĐT lớn của thế giới; Xây dựng mối liên kết giữa doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp logistics và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ.

Thứ sáu: Phát triển và ứng dụng các công nghệ mới trong TMĐT, hỗ trợ quá trình chuyển đổi số của cơ sở công nghiệp nông thôn. Hỗ trợ đào tạo về chuyển đổi số, phát triển các sản phẩm, giải pháp công nghệ số và hỗ trợ doanh nghiệp triển khai ứng dụng trong từng công đoạn của chu trình kinh doanh.

Đối với bản thân các cơ sở công nghiệp nông thôn cần quan tâm thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất: Nâng cao nhận thức và trau dồi trình độ tin học và ngoại ngữ của đội ngũ quản trị và các nhân viên trong công ty. Thường xuyên đào tạo và cho nhân viên tham dự các khóa học về tin học và ngoại ngữ. Việc đào tạo có thể dưới hình thức cấp kinh phí cho nhân viên đi học hoặc tổ chức đào tạo trực tiếp ngay tại công ty.

Thứ hai: Tin học hóa hệ thống quản lý thông tin doanh nghiệp. Đây là yếu tố hết sức quan trọng đối với sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, tạo tiền đề để các doanh nghiệp tham gia vững chắc vào hoạt động TMĐT.

Thứ ba: Xây dựng chiến lược kinh doanh trên mạng. Đối với các cơ sở công nghiệp nông thôn, trước hết nên đầu tư cho xây dựng máy tính nối mạng Internet, cần phải có ít nhất một cán bộ quản lý thông tin (CIO) có đủ năng lực trình độ làm nhiệm vụ quản lý và điều hành hệ thống thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Xây dựng kế hoạch nguồn lực phục vụ cho kinh doanh trên mạng như: đội ngũ quản trị mạng, đội ngũ bán hàng và tiếp thị trên mạng, nhà cung ứng, quan hệ đối tác.

Ngoài ra, các cơ sở công nghiệp nông thôn cũng cần đặc biệt quan tâm đến các vấn đề sau đây:

Thứ nhất: Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đây là một trong các tiêu chí hàng đầu quyết định đến hành vi mua sắm của người tiêu dùng, cũng như khả năng giữ chân khách hàng của doanh nghiệp.

Thứ hai: Đầu tư hợp lý cho xây dựng cửa hàng trực tuyến, cải thiện chất lượng hình ảnh, thông tin trên các cửa hàng. Việc này giúp tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, bởi cửa hàng trực tuyến giúp khách hàng dễ dàng truy cập website của doanh nghiệp và nhanh chóng tìm thấy những thứ mà họ đang cần, cho phép doanh nghiệp điều tra được thị hiếu của khách hàng thông qua thống kê lượt mua, lượt truy cập...

Thứ ba: Đẩy mạnh tiếp thị thông qua kênh truyền thông xã hội. Mạng xã hội này sẽ cung cấp cho doanh nghiệp công cụ cần thiết để tiếp cận khách hàng mục tiêu, từ đó giúp tăng lưu lượng truy cập vào website của doanh nghiệp cũng như tăng doanh thu bán hàng.

Thứ tư: Đầu tư nâng cấp hạ tầng công nghệ, hạ tầng phần mềm lẫn phần cứng, nhằm đảm bảo an toàn thông tin khách hàng và giao dịch, góp phần nâng cao lòng tin của người mua đối với hoạt động trực tuyến, nâng cao hình ảnh thương hiệu cho doanh nghiệp.

Thứ năm: Chú trọng vào các dịch vụ chăm sóc khách hàng. Các dịch vụ khách hàng mà doanh nghiệp cung cấp là một công cụ đắc lực giúp họ phát triển, duy trì quan hệ với khách hàng và phát triển TMĐT bởi trải nghiệm mà doanh nghiệp mang đến sẽ tác động và quyết định phần lớn đến việc khách hàng có mua sản phẩm, dịch vụ đó hay không.

Theo như Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử quốc gia giai đoạn 2021-2025 tại Quyết định số 645/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 15 tháng 5 năm 2020, Chính phủ đã đặt các mục tiêu tổng quát đến năm 2025 gồm: Hỗ trợ, thúc đẩy việc ứng dụng rộng rãi thương mại điện tử trong doanh nghiệp và cộng đồng; Thu hẹp khoảng cách giữa các thành phố lớn và các địa phương về mức độ phát triển thương mại điện tử; Xây dựng thị trường thương mại điện tử lành mạnh, có tính cạnh tranh và phát triển bền vững; Mở rộng thị trường tiêu thụ cho hàng hóa Việt Nam trong và ngoài nước thông qua ứng dụng thương mại điện tử; Đẩy mạnh giao dịch, thương mại điện tử xuyên biên giới; Trở thành quốc gia có thị trường thương mại điện tử phát triển thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á. Đây là cơ hội để các cơ sở công nghiệp nông thôn ở các làng nghề thực hiện các giải pháp để vươn lên làm chủ công nghệ, tăng cường các hoạt động TMĐT, bán hàng trực tuyến, nâng cao giá trị các sản phẩm làng nghề, đảm bảo hiệu quả tối đa trong sản xuất kinh doanh.

TS.Tôn Gia Hóa
Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam

Tin liên quan

Tin mới hơn

An Giang: Sức sống mới ở làng nghề dệt thổ cẩm của đồng bào Khmer

An Giang: Sức sống mới ở làng nghề dệt thổ cẩm của đồng bào Khmer

LNV - Liên kết cùng nhau sản xuất, hỗ trợ nâng cao tay nghề, phát triển các sản phẩm dệt truyền thống đạt chuẩn OCOP là cách mà các nghệ nhân làng dệt thổ cẩm Khmer (xã Văn Giáo, thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang) đang thực hiện nhằm bảo tồn và mang lại sức sống mới cho nghề dệt truyền thống tồn tại hàng thế kỷ ở vùng Bảy Núi An Giang.
Hải Dương: Đưa bánh đa Lộ Cương vươn xa

Hải Dương: Đưa bánh đa Lộ Cương vươn xa

LNV - Làng bánh đa Lộ Cương, một trong những làng nghề lâu đời ở thành phố Hải Dương (tỉnh Hải Dương) mang đậm nét văn hóa đặc sắc của một không gian làng nghề Việt. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển và mở rộng mạnh mẽ của thành phố Hải Dương. Làng nghề bánh đa Lộ Cương cũng có nhiều thay đổi với những hướng đi, cách làm phù hợp nhằm giữ gìn và phát huy nghề truyền thống.
Nghệ An: Bảo tồn nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào dân tộc Thái

Nghệ An: Bảo tồn nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào dân tộc Thái

LNV - Ngày nay, trong cuộc sống hiện đại, với sự đa dạng của các sản phẩm hàng hóa khác nhau, nhưng những sản phẩm được làm từ thổ cẩm với hoa văn truyền thống như khăn piêu, những chiếc đệm, những tấm rèm che… vẫn được đồng bào giữ gìn phục vụ nhu cầu sinh hoạt của gia đình đồng thời giúp bảo lưu giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Đến nay, các sản phẩm này đã trở thành mặt hàng được nhiều du khách lựa chọn khi đến với Nghệ An.
Bình Định: Làng nghề truyền thống đan đát Trung Chánh mang sắc thái, hình dáng đặc trưng riêng

Bình Định: Làng nghề truyền thống đan đát Trung Chánh mang sắc thái, hình dáng đặc trưng riêng

LNV - Làng nghề truyền thống đan đát Trung Chánh, xã Cát Minh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa đại diện vùng miền, thể hiện đời sống văn hóa lễ hội truyền thống, sinh hoạt cộng đồng góp phần tạo diện mạo, bản sắc riêng của địa phương đạt tiêu chí bản sắc văn hóa dân tộc.
Lễ hội Đình Hậu: Sắc màu truyền thống và tinh hoa Cốm Làng Vòng

Lễ hội Đình Hậu: Sắc màu truyền thống và tinh hoa Cốm Làng Vòng

LNV - Sáng ngày 09/3/2025, trong không khí phấn khởi của mùa xuân mới, phường Dịch Vọng Hậu (quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội) long trọng tổ chức Lễ hội truyền thống Đình Hậu - Xuân Ất Tỵ 2025 và đón bằng công nhận "Nghề truyền thống Hà Nội" với nghề sản xuất Cốm Làng Vòng. Đây là sự kiện văn hóa quan trọng, không chỉ thể hiện sự tôn vinh các giá trị lịch sử mà còn khẳng định niềm tự hào về nghề cốm đặc trưng của người dân nơi đây.
Vĩnh Phúc: Phát triển và bảo tồn các làng nghề truyền thống: Thực trạng và giải pháp

Vĩnh Phúc: Phát triển và bảo tồn các làng nghề truyền thống: Thực trạng và giải pháp

LNV - Làng nghề truyền thống luôn đóng vai trò quan trọng trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và tạo dựng cơ hội việc làm cho người dân. Để các làng nghề có thể phát triển bền vững, ngoài sự hỗ trợ của chính quyền, cộng đồng và các nghệ nhân cần có những bước đi đồng bộ trong việc bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng sản phẩm và ứng dụng công nghệ vào sản xuất.

Tin khác

Hải Phòng: Phát huy bản sắc, giá trị làng nghề

Hải Phòng: Phát huy bản sắc, giá trị làng nghề

LNV - Thành phố Hải Phòng có nhiều nghề và làng nghề truyền thống mang đậm nét văn hóa bản địa, góp phần quan trọng tạo việc làm, hiệu quả kinh tế phục vụ đời sống nhân dân. Bên cạnh một số nghề truyền thống có xu hướng mai một dần thì cũng có nhiều làng nghề, nghề truyền thống chủ động tìm được hướng đi đúng đắn, phù hợp nhu cầu phát triển của thị trường nhờ sự hỗ trợ hiệu quả của các cấp, ngành, địa phương. Qua đó, góp phần gìn giữ, phát huy giá trị truyền thống, nét đặc trưng, riêng biệt, bản sắc độc đáo của các địa phương.
Làng nghề đan lát ở Vĩnh Long

Làng nghề đan lát ở Vĩnh Long

LNV - Nằm bên bờ sông Long Hồ, xã Hòa Tịnh, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long là xóm nghề đan đát rổ, rế từ tre trúc. Đây là một nghề truyền thống đã có từ lâu đời của người dân nơi đây. Nhờ sự tỉ mỉ, khéo léo của đôi bàn tay của người thợ, những chiếc rổ, rế từ tre trúc đã trở thành những sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa của vùng sông nước miền Tây.
Điện Biên: Giữ lửa cho nghề rèn của người Mông

Điện Biên: Giữ lửa cho nghề rèn của người Mông

LNV - Nghề rèn của đồng bào dân tộc Mông ở tỉnh Điện Biên không chỉ thể hiện sự tài hoa khéo léo của người thợ khi cho ra lò những sản phẩm tinh xảo, có giá trị sử dụng cao, mà còn thể hiện nét riêng có về bản sắc văn hóa.
Cà Mau: Những người tâm huyết giữ nghề truyền thống lờ, lọp

Cà Mau: Những người tâm huyết giữ nghề truyền thống lờ, lọp

LNV - Về miền Tây Nam Bộ ai cũng biết nơi đây có một nét rất riêng biệt đó là lắm sông nhiều cá, nên nơi đây cũng sản sinh ra một làng nghề mang đậm chất đặc trưng sông nước đó là làng nghề đan lờ, lợp.
“Đòn bẩy” để Hà Nội bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề

“Đòn bẩy” để Hà Nội bảo tồn, phát huy giá trị làng nghề

LNV - Làng nghề gốm sứ Bát Tràng và làng dệt Vạn Phúc là 2 làng nghề đầu tiên của Việt Nam trở thành thành viên Mạng lưới các thành phố thủ công sáng tạo thế giới.
Nghề làm ngói Âm Dương ở Lũng Rì

Nghề làm ngói Âm Dương ở Lũng Rì

LNV - Xóm Lũng Rì, xã Tự Do, huyện Quảng Hòa cách TP. Cao Bằng khoảng trên 30km, đây là làng nghề làm ngói âm dương đã có hàng trăm năm tuổi. Ngói Lũng Rì được làm thủ công rất cẩn thận, màu sắc đẹp, dùng lợp mái nhà mát vào mùa hè ấm về mùa đông.
Trù phú làng nghề

Trù phú làng nghề

LNV - Toàn tỉnh Cà Mau có gần 40 làng nghề tiểu thủ công nghiệp được công nhận và nhiều làng nghề thực hiện mô hình gắn với phát triển du lịch như: chuối khô, tôm khô, khô cá bổi, dưa bồn bồn, trồng bí đỏ, đan mê bồ truyền thống, làm bánh phồng tôm, muối ba khía, nuôi thuỷ sản...
Bình Định: Làng nghề đan đát Phú Hiệp tạo ra sản phẩm mang bản sắc văn hóa

Bình Định: Làng nghề đan đát Phú Hiệp tạo ra sản phẩm mang bản sắc văn hóa

LNV - Thôn Phú Hiệp, xã Cát Tài, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định được coi là cái nôi của nghề đan đát, đây là một nghề bản địa với nguyên liệu sẵn có ở địa phương để làm ra các sản phẩm quen thuộc như: Thúng, nong, nia, rổ, sàn, dừng, lồng sen, cơi trầu, xiểng đám cưới.
Bắc Ninh: Các cơ sở sản xuất giấy ở làng nghề Phong Khê dừng hoạt động

Bắc Ninh: Các cơ sở sản xuất giấy ở làng nghề Phong Khê dừng hoạt động

LNV - Đến nay, 100% cơ sở sản xuất giấy trong khu vực làng nghề Phong Khê; 135/137 cơ sở sản xuất giấy trong cụm công nghiệp Phong Khê I và Phong Khê II, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh đã dừng hoạt động.
Thái Bình: Đưa nghề dệt đũi vươn xa

Thái Bình: Đưa nghề dệt đũi vươn xa

LNV - Thái Bình được biết đến không chỉ là “vựa lúa” của miền bắc Việt Nam mà còn là tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống được hình thành và phát triển từ nhiều đời nay. Trong đó, phải kể đến làng nghề dệt đũi xã Nam Cao, huyện Kiến Xương, (tỉnh Thái Bình) trước đây, xã Thống Nhất ngày nay. Nghề dệt đũi Nam Cao được Bộ VH-TT&DL cấp chứng nhận đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào tháng 11/2023.
Làng hương Cao Thôn

Làng hương Cao Thôn

LNV - Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dịp lễ Tết chính là một trong những nét đẹp văn hóa của người Việt. Những nén hương thơm thành kính như cầu nối trao gửi những tâm nguyện lời ước mong của người sống với những tổ tiên đã khuất. Để có một nén hương thơm là không biết bao nhiêu công sức của những người làm nghề làm hương xạ. Làng hương Cao Thôn, xã Bảo Khê, (TP. Hưng Yên), là một trong những làng nghề làm hương xạ lâu đời nhất cả nước với lịch sử hơn 200 năm. Thời điểm Tết là lúc không khí của làng nghề nhộn nhịp hơn hẳn.
Đồng Tháp: Lai Vung bảo tồn, phát triển nghề truyền thống

Đồng Tháp: Lai Vung bảo tồn, phát triển nghề truyền thống

LNV - Huyện Lai Vung là một trong những địa phương của tỉnh Đồng Tháp có nhiều nghề truyền thống. Thời gian qua, ngành chức năng của huyện Lai Vung nỗ lực bảo tồn, phát triển các nghề truyền thống theo hướng hài hòa giữa gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa truyền thống với cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, thích ứng nền kinh tế thị trường.
Bình Định: Nghệ nhân Thanh Đa đam mê hát dân ca, bài chòi

Bình Định: Nghệ nhân Thanh Đa đam mê hát dân ca, bài chòi

LNV - Nghệ nhân Thanh Đa (tên thật là Nguyễn Đình Đa) có 24 năm tham gia thực hành di sản văn hóa phi vật thể được đề nghị xét tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú với kỹ năng trình diễn nghệ thuật dân ca và bài chòi qua tiếng hát ru ngọt ngào, mùi mẫn và những làn điệu trữ tình, sâu lắng của dân ca, bài chòi.
Hòa Bình: Mô hình nuôi ong lấy mật đem lại hiệu quả kinh tế cao

Hòa Bình: Mô hình nuôi ong lấy mật đem lại hiệu quả kinh tế cao

LNV - Tận dụng lợi thế tự nhiên, nghề nuôi ong lấy mật của người dân trên địa bàn tỉnh thời gian qua phát triển mạnh. Đây là nghề không chỉ giúp nâng cao thu nhập, phát triển kinh tế cho nhiều hộ dân mà còn góp phần không nhỏ trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên.
Nghề làm bột khoai Tây Ninh: Bí quyết giữ gìn hương vị truyền thống

Nghề làm bột khoai Tây Ninh: Bí quyết giữ gìn hương vị truyền thống

LNV - Tây Ninh, một tỉnh nằm ở vùng Đông Nam Bộ, nổi bật với nhiều đặc sản hấp dẫn. Một trong những nghề truyền thống lâu đời của người dân nơi đây là nghề làm bột khoai, đặc biệt là bột khoai mì (sắn). Đây không chỉ là một nghề mang lại thu nhập cho nhiều gia đình mà còn là niềm tự hào trong văn hóa ẩm thực của Tây Ninh.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Lễ hội làng Bát Tràng được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia

Lễ hội làng Bát Tràng được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia

LNV - Tối 12-3, tại đình làng Bát Tràng, UBND huyện Gia Lâm long trọng tổ chức Lễ công bố Lễ hội làng Bát Tràng là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và khai mạc lễ hội truyền thống làng Bát Tràng năm 2025.
An Giang: Sức sống mới ở làng nghề dệt thổ cẩm của đồng bào Khmer

An Giang: Sức sống mới ở làng nghề dệt thổ cẩm của đồng bào Khmer

LNV - Liên kết cùng nhau sản xuất, hỗ trợ nâng cao tay nghề, phát triển các sản phẩm dệt truyền thống đạt chuẩn OCOP là cách mà các nghệ nhân làng dệt thổ cẩm Khmer (xã Văn Giáo, thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang) đang thực hiện nhằm bảo tồn và mang lại sức sống mới cho nghề dệt truyền thống tồn tại hàng thế kỷ ở vùng Bảy Núi An Giang.
Hải Dương: Đưa bánh đa Lộ Cương vươn xa

Hải Dương: Đưa bánh đa Lộ Cương vươn xa

LNV - Làng bánh đa Lộ Cương, một trong những làng nghề lâu đời ở thành phố Hải Dương (tỉnh Hải Dương) mang đậm nét văn hóa đặc sắc của một không gian làng nghề Việt. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển và mở rộng mạnh mẽ của thành phố Hải Dương. Làng nghề bánh đa Lộ Cương cũng có nhiều thay đổi với những hướng đi, cách làm phù hợp nhằm giữ gìn và phát huy nghề truyền thống.
Hà Nội: Công nhận Cốm làng Vòng là nghề truyền thống Hà Nội

Hà Nội: Công nhận Cốm làng Vòng là nghề truyền thống Hà Nội

LNV - Sáng ngày 09/3/2025, phường Dịch Vọng Hậu (quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội) long trọng tổ chức Lễ hội truyền thống Đình Hậu - Xuân Ất Tỵ 2025 và đón bằng công nhận “Nghề truyền thống Hà Nội” với nghề sản xuất Cốm Làng Vòng.
Bảo tồn và phát triển không gian kiến trúc làng nghề truyền thống

Bảo tồn và phát triển không gian kiến trúc làng nghề truyền thống

LNV - Trải qua hàng trăm năm lịch sử, các làng nghề không chỉ mang nhiều giá trị về mặt kinh tế mà còn là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa dân tộc và mang đậm dấu ấn của kiến trúc truyền thống Việt Nam. Khai thác tiềm năng của làng nghề để thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch đang được coi là một trong những hướng đi triển vọng của đất nước. Tuy nhiên, làng nghề truyền thống trong thời kỳ đổi mới cũng đang đặt ra những thách thức đặc biệt là bảo tồn và phát triển về không gian kiến trúc.
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-61
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-66
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-67
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-91
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-32
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-50
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-33
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-51
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-54
so-456-tap-chi-lang-nghe-viet-nam-2025-75
Giao diện di động