Hà Nội: 24°C Hà Nội
Đà Nẵng: 26°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 26°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 23°C Thừa Thiên Huế

Nghề chằm nón lá

LNV - Có nhiều câu hỏi về nguồn gốc của chiếc nón đan bằng lá đơn sơ ấy có lịch sử từ khi nào? Tổ nghề là ai? Những câu hỏi này đến nay vẫn không ai trả lời được. Nhiều tài liệu cho rằng chiếc nón lá xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỉ thứ 13, đời nhà Trần. Theo các nghiên cứu của các nhà khoa học, hình ảnh tiền thân của chiếc nón đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500 – 3000 năm về trước.

“Tôi chưa về con sông quê em

Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên

Bàn tay xây lá, tay xuyên chỉ

Mười sáu vành, mười sáu trăng lên”

Trong đoạn thơ “Người con gái chằm nón” bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm, chiếc nón lá hiện lên rất tự nhiên, gần gũi. Hình ảnh người con gáivới chiếc nón lá dịu dàng, bình dị đã làm tôn lên vẻ đẹp củaphụ nữ Việt, là cảm hứng nghệ thuật của bao văn nhân, nghệ sĩ cũng như đã đi vào thơ ca, nhạc họa của biết bao thế hệ.Chiếc nón lá không chỉ là vật dụng thiết thân, người bạn thủy chung với người lao động dùng để đội đầu che mưa, che nắng khi ra đồng, đi chợ, là chiếc quạt xua đi những giọt mồ hôi dưới nắng hè gay gắt, mà còn là vật làm duyên, tăng nét nữ tính của người phụ nữ.

Nghề chằm nón lá

Nhiều tài liệu cho rằng chiếc nón lá xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỉ thứ 13, đời nhà Trần. Theo các nghiên cứu của các nhà khoa học, hình ảnh tiền thân của chiếc nón đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500 – 3000 năm về trước. Dù có nhiều giai thoại, trải qua nhiều sự biến đổi dưới nhiều hình thức khác nhau, từ chiếc nón hình tròn ở miền Bắc xưa đến nón tròn dẹt, nón quai thao và nón chóp Huế. Nón dạng hình chóp vành rộng, tròn,giữa lòng có đính một vòng nhỏ đan bằng tre, hoặc trúc vừa đủ ôm khít đầu người đội, có dây đeo làm bằng vải để giữ trên cổ. Đây là nón hiện được sử dụng phổ biến bởi mặt tạo khối vững vàng, vừa nâng cao được hiệu quả thẩm mỹ, vừa có chiều sâu để phục vụ được việc che mưa, che nắng nhiều hơn và trở thành một món đồ không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của người Việt từ bao đời nay.

Trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt, nghề chằm nón thủ công truyền thống vẫn được duy trì và tồn tại truyền nghề từ đời cha mẹ, sau đó đến đời con cháu, cứ thế truyền từ đời này sang đời khác cho đến ngày nay. Trên đất nước ta cả ba miền Bắc, Trung, Nam đều có nhiều làngnghề làm nón lá nổi tiếng và mỗi loại nón ở từng địa phương đều mang sắc thái riêng.

Nghề chằm nón lá

Ở miền Bắc nổi tiếng làm nón với làng nón Chuông nằm ở huyện Thanh Oai, Hà Nội là loại nón bền đẹp vào loại nhất ở vùng đồng bằng Bắc Bộ; Nón Lai Châu của đồng bào Thái; nón Cao Bằng của đồng bào Tày sơn đỏ; Nón Thanh Hoá có 16-20 vành.

Dọc miền Trung có nón Ba Ðồn (Quảng Bình), làng nón Hạ Thôn, xã Quảng Tân, huyện Quảng Trạch, Quảng Trị. Đến cố đô Huế lại phát triển mạnh mẽ với nhiều làng nón như Dạ Lê, Phú Cam, Đốc Sơ… Đặc trưng của sản phẩm nón lá Huế không chỉ là những chiếc nón thông thường mà còn là một tác phẩm nghệ thuật, độc đáo nhất trong đó là nón bài thơ. Ở Quảng Nam có làng nón Duy Xuyên; Quế Minh nón được làm ra mỏng nhẹ và dáng thanh thoát. Làng nón Gò Găng, Thuận Hạnh, Phú Gia ở Bình Định có lịch sử lâu đời chuyên sản xuất nón Ngựa cao cấp cung ứng cho triều đình, quan lại, phú gia vào thời phong kiến, ngày nay tùy nhu cầu của khách hàng các làng có thể làm ra những chiếc nón đơn giản hoặc tinh tế cao cấp.

Nghề chằm nón lá

Miền Nam có những xóm nghề, làng nghề chằm nón như: Làng Tằm Lanh, xã Trung lập Thượng, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh; Ở Tây Ninh có làng nón ấp An Phú, An Hòa (Trảng Bàng); Làng nón lá Ninh Sơn (Thị xã Tây Ninh), nón được làm có độ bền cao, khi gặp mưa vẫn thẳng, không bị dúm lại như các loại nón khác; Nón ở ấp Thới Tân A, huyện Thới Lai (TP.Cần Thơ) nón lá thành phẩm sẽ được quét một lớp dầu bóng pha với xăng nhằm chống thấm nước, tăng độ bóng, độ bền cho sản phẩm. Đây là đặc điểm giúp nón lá Thới Lai được ưu chuộng rộng rãi trên thị trường. Làng nón ở thị trấn Long Hồ, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long lá nón được làm bằng lá mật cật(loại cây nhỏ, thấp có lá xòe rộng như lá cọ, mọc thành từng đám ở Tây Ninh, Phú Quốc, Cà Mau. Mỗi cây mật cật chỉ có 1 lá non và được người ta chọn để làm nón) và cây trúc là nguyên liệu chính để làm nón. Riêng làng nón Hòa Bình (huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang), thì sử dụng lá buông để chằm nón.Những làng nghề này đã tạo ra các sản phẩm công phu cũng là một trong những điểm thu hút khách du lịch.

Nghề chằm nón lá

Các làng nghề chằm nón rất phát triển vào những năm sau giải phóng, sản phẩm làm ra vào thời gian này bán rất chạy, vì rẻ và tiện dụng. Cho nên, số hộ làm nghề chằm nón ngày càng tăng. Nhưng thời gian gần đây, cuộc sống ngày càng hiện đại, người dân ít sử dụng nón lá, thì số hộ gia đình tham gia chằm nón trong các làng nghề ngày càng ít.

Nghề chằm nón lá có nhiều công đoạn, nhưng việc chằm nón đòi hỏingười thợ ở các làng nghề phải có sự chăm chỉ, cần mẫn và sự khéo léo của đôi bàn tay. Cho nên, nhân lực trong các làng nghề chủ yếu là phụ nữ, nam giới có chăng chỉ làm mô, vót vành… Vì thế, nghề chằm nón được coi là nghề dành riêng cho phụ nữ.Phụ nữ làm nghề có nhiều độ tuổi khác nhau, làm nhiều công việc khác nhau, nên khi làm nghề thì thời gian tham gia vào công việc cũng không giống nhau. Hiện nay, nghề chằm nón lá có giá thành không cao, nhưng cũng tạo ra thu nhập ổn định cho người làm nghề. Đây cũng là công việc phù hợp cho chị em làm vào thời điểm nông nhàn hay tận dụng những giờ rảnh rỗi để kiếm thêm thu nhập cho gia đình.

Nghề chằm nón lá

Chiếc nón lá vừa đẹp, vừa bền được hoàn thành, là cả một nghệ thuật và công phu của những nghệ nhân, đòi hỏi sự tỉ mỉ trong từng công đoạn của quy trình sản xuất, cần rất nhiều nguyên liệu, vật dụng cũng như công sức và thời gian. Vật dụng làm nón gồm: Lá, chỉ nylon, tre (hoặc trúc, giang), dầu bóng, dây đeo… Dụng cụ để chằm nón gồm các loại như: Mác-dùng để vót niềng; Kéo-dùng để cắt tỉa lá; Kim-dùng để xỏ lá và chằm; Lò than- dùng để hơ nóng lá khi vuốt; Miếng gang hoặc sắt-dùng để kê lá vuốt cho thẳng; Cục vải- dùng để vuốt lá; Mô nón (còn gọi là khuôn, khung) được làm từ loại gỗ nhẹ, mái cong đều hình chóp. Mô chằm được ghép bởi những thanh gỗ theo hình chóp, kích thước bằng chiếc nón lá. Trên mỗi thanh gỗ được khắc sâu xuống 16 vạch theo khoảng cách ngắn dần từ dưới lên trên đỉnh chóp. Để hình dáng của chiếc nón lá sau này cân đối, đẹp mắt, vừa ý, người thợ làm mô nón cần giữ được kỹ thuật tạo dáng, khoảng cách giữa các vành và độ tròn của vành… như một thứ gia bảo cha truyền con nối, theo một thẩm mĩ dân gian “hay mắt” mà thật ra là cả một tỉ lệ thích hợp đã được nhiều đời và nhiều vùng kiểm nghiệm “thuận mắt ta ra mắt người”.

Một chiếc nón lá hoàn hảo được làm ra, người thợ phải tỉ mỉ từ khâu chọn lá, phơi lá, vuốt lá. Lá làm nón tùy mỗi vùng miền và tùy làng nghề có thể dùng lá dừa, lá mật cật, lá buông, lá cọ… Lá phải non vừa độ, gân lá phải xanh, màu lá phải trắng xanh. Một chiếc nón đạt tiêu chuẩn phải có màu trắng xanh với những gân lá vẫn còn màu xanh nhẹ, mặt lá phải bóng, khi nón đan lên phải nổi những gân lá màu xanh đẹp mắt. Sau khi chọn được lá nón tốt, người thợ phải mang tàu lá nón đi được luộc chín, phơi và vuốt thẳng, bằng cách dùng một miếng gang (sắt)đặt trên bếp lò được đốt nóng, lửa phải vừa độ, không nóng quá, không nguội quá. Sau đó, đặt lá lên dùng cục vải vuốt cho đến khi thẳng bóng, nhưng không được để lá bị ngả vàng và đem phơi rồi ủ khô sao cho luôn giữ màu xanh-trắng tự nhiên.Để làm đươc điều đó, người thợ phải biết sử dụng lực đôi tay, đồng thời biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa tay đè và tay vuốt. Lá sau khi vuốt xong được cắt xéo góc với cùng độ dài là 50cm, rồi kết lại từng xâu.

Nghề chằm nón lá

Ngoài lá nón, vành nón cũng là bộ phận hết sức quan trọng của chiếc nón. Vành nón chính là xương sống của nón.Với cây mác sắt, những người thợ làm nón chuốt từng nan tre (nhiều làng nghề dùng cây trúc, hoặc cây giang) sao cho tròn đều, bóng bẩy và có đường kính rất nhỏ, thường chỉ lớn hơn que tăm một chút. Mỗi cái nón sẽ có 16 nan tređược uốn thành những vòng tròn. Vòng to nhất có đường kính khoảng 50cm, những vòng tiếp theo càng lên đỉnh càng nhỏ dần, vòng nhỏ nhất chỉ bằng đồng xu. Những vòng ấy sẽ được đặt vào mô theo những vạch khắc sẵn bằng gỗ hình chóp theo vị trí từ dưới lên và từ lớn đến bé. Vành nón phải đều tăm tắp, không được méo mó, xộc xệch thì mới tạo ra được những chiếc nón đẹp.

Sau công đoạn xếp vành lên mô là công đoạn xây (có nơi gọi là lợp) lá trên mô.Công đoạn này rất quan trọng, đòi hỏi người thợ phải có kinh nghiệm mới xoay lá đều, đẹp. Mỗi chiếc nón gồm có từ 2 hoặc 3 lớp lá, tùy từng làng nghề. Những chiếc lá được xếp ngay ngắn lên mô nón.Khi xây lá, người làm phải thật sự khéo léo và đều tay để những chiếc lá không bị chồng lên nhau hay xô lệch. Sau đó, người thợ sẽ dùng một cái vành, chụp lên bên ngoài mô nón để giữ cho lá nằm cố định, giúp người thợ chằm được dễ dàng.

Nghề chằm nón lá

Giai đoạn chằm (hay còn gọi là khâu) nón là phần quan trọng nhất. Để làm nên một chiếc nón bền, đẹp đòi hỏi người khâu phải có đôi tay khéo léo giữ cho các lớp lá trên nón không rách và giúp chiếc nón được phẳng, không tạo nên nếp nhăn hoặc lồi lõm. Người thợ bắt đầu chằm nón bằng kim và chỉ nylon dẻo mỏng như sợi chỉ, có độ dai, màu trắng trong suốt. Người thợ cầm kim cũng phải thật mềm mại, mỗi mũi kim phải thẳng, đều như thêutừ trong ra ngoài, khoảng cách giữa những mũi kim vừa phải, không xa quá, không lộ chân kimvà giấu đi được những mối chỉ nối thì mới tạo ra sản phẩm chiếc nón đẹp.Những đường kim mũi chỉ lên xuống nhịp nhàng sẽ gắn chặt lá nón và vành lại với nhauvà xoay tròn để làm sao lá đầu chóp nón cho khéo để chiếc nón lá được thẩm mỹ, thể hiện cái “hồn” của người thợ vào trong nón lá.

Quy trình cuối cùng là nức vành, đây là công đoạn khá quan trọng, người thợ sẽ vót 01 cọng nan có thân dẹp gọi là cây tiến, cặp vào vành nón số 16 để khi nức, vành nón được tròn và chắc chắn, nón sử dụng được lâu bền.Ngoài ra, người thợ còn trang trí bên trong của chóp nón bằng chỉ thêu màu đỏ, xanh, hồng,… hình ngôi sao hay hình cái bông để tăng thêm nét đẹp cho sản phẩm của mình.Chiếc nón hoàn thành xong được quét một lớp dầu bóng để chiếc nón không bị mốc, tăng độ bền lâu và thêm tính thẩm mĩ. Quai nón được buộc đối xứng ở hai bên. Quai nón thường làm từ nhung hoặc lụa với nhiều màu sắc khác nhau: cam, đỏ, hồng, tím…để làm tăng thêm nét duyên cho người đội. Người thợ sau khi làm xong thường sẽ trang trí lên nón những bài thơ bên trong hoặc những hình vẽ mỹ thuật bên trên hay thêu chỉ đẹp mắt.

Nghề chằm nón lá

Trong cuộc sống hiện đại hóa hiện nay, những người thợ thủ công trong các làng nghề vẫn tỉ mỉ, khéo léo từng ngày làm nên những chiếc nón lá đẹp, bền với lòng nhiệt huyết yêu nghề, yêu cái đẹp mộc mạc của chiếc nón lá. Họ vẫn đang âm thầm níu giữ lấy cái nghề làm nên nét đặc sắc quê hương – giữ lấynhững giá trị cốt lõi về văn hóa nón lá Việt Nam. Đặc biệt, nón lá đãgóp phần tôn vinh vẻ đẹp, nét duyên dáng, sự bình dị của người phụ nữ Việt Nam.Giờ đây, nón lá Việt Nam không chỉ phổ biến trong nước mà còn được giới thiệu trên thị trường quốc tế. Hiện nay,nhằm thu hút khách du lịch đồng thời quảng bá nền văn hóa nước nhà, nhà nước đang đẩy mạnh đầu tư để duy trì và phát triển các làng nghề trở thành hình mẫu du lịch lý tưởng trong tương lai.Chắc hẳn khi đặt chân đến dải đất hình chữ S, cầm trên tay một chiếc nón lá, mỗi du khách sẽ có những ấn tượng và trải nghiệm thú vị.

Nguyễn Thị Vân Huệ

Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ - Phòng Nghiên cứu - Sưu tầm - Trưng bày

Nguyễn Thị Vân Huệ

Tin liên quan

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

Nan giải nguồn cung nguyên liệu cho các làng nghề thủ công Hà Nội

LNV - Xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu bền vững cho làng nghề Hà Nội nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng đang là bài toán nan giải, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều bên và giải pháp đồng bộ.
Gìn giữ và phát huy nghề truyền thống của đồng bào Hrê ở huyện Ba Tơ

Gìn giữ và phát huy nghề truyền thống của đồng bào Hrê ở huyện Ba Tơ

LNV - Giữa dòng chảy hiện đại hóa, những nghề truyền thống như dệt thổ cẩm và đan lát của đồng bào Hrê ở huyện Ba Tơ (tỉnh Quảng Ngãi) vẫn được gìn giữ bền bỉ qua nhiều thế hệ. Không chỉ mang giá trị thẩm mỹ cao, các sản phẩm thủ công còn là biểu tượng văn hóa độc đáo, gắn liền với đời sống núi rừng và tâm hồn người Hrê. Nhờ đôi bàn tay khéo léo của những nghệ nhân, những nghề xưa không chỉ sống lại mà còn trở thành điểm nhấn trong phát triển du lịch cộng đồng địa phương.
Làng nghề dệt lanh Lùng Tám – Nét văn hóa Mông trên Cao nguyên đá

Làng nghề dệt lanh Lùng Tám – Nét văn hóa Mông trên Cao nguyên đá

LNV - Lên Cao nguyên đá, nhiều du khách sẽ tìm đến với Làng nghề dệt vải lanh Lùng Tám, xã Lùng Tám, huyện Quản Bạ. Nơi đây nổi tiếng với việc gìn giữ, phát huy hiệu quả nghề truyền thống của Hợp tác xã lanh Lùng Tám, với 100% thành viên là phụ nữ người Mông. Sự cần cù, sáng tạo từ những sợi lanh đã cho ra đời nhiều sản phẩm thủ công rất đẹp, mang đậm bản sắc truyền thống. Chính điều này đã giúp cho Làng nghề dệt vải lanh Lùng Tám trở thành một điểm du lịch trải nghiệm cực kỳ hấp dẫn và thu hút rất đông du khách.

Tin mới hơn

Bắc Ninh: Về Đồng Cống nghe đất chuyển mình

Bắc Ninh: Về Đồng Cống nghe đất chuyển mình

LNV - Khoảng 10 năm về trước, thôn Đồng Cống, xã Bảo Đài (Bắc Ninh) thuộc diện nghèo khó nhất xã. Mấy năm gần đây, nhờ biết cách khai thác tốt lợi thế tự nhiên từ đất vườn đồi, đời sống kinh tế của người dân trong thôn có nhiều khởi sắc.
Nỗi lo ở làng nghề gỗ truyền thống Đồng Kỵ

Nỗi lo ở làng nghề gỗ truyền thống Đồng Kỵ

LNV - Như một bản nhạc, sau những nốt thăng vút cao sẽ có những nốt trầm da diết, lắng đọng. Với ngành sản xuất gỗ mỹ nghệ cũng vậy. Giữa “bản giao hưởng hội nhập” của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang vang lên mạnh mẽ thì ở những “thủ phủ” đồ gỗ mỹ nghệ nổi tiếng của Bắc Ninh như Đồng Kỵ, Hương Mạc, Phù Khê… lại đang ở “nốt trầm”, loay hoay tìm hướng đi mới.
Gìn giữ, phát triển làng nghề truyền thống: Tiềm năng nhưng đầy thách thức

Gìn giữ, phát triển làng nghề truyền thống: Tiềm năng nhưng đầy thách thức

LNV - Làng nghề truyền thống tại Hà Nội cũng như trên cả nước dù có nhiều thuận lợi và tiềm năng nhưng những điểm yếu cố hữu như hoạt động manh mún, thiếu liên kết, già hóa nhân lực, thiếu cả vốn lẫn công nghệ... khiến các làng nghề Hà Nội phản ứng chậm chạp với những đổi thay của kinh tế hiện đại.
Ninh Bình: Hiến đất mở đường - Khi tinh thần cộng đồng tạo nên kỳ tích

Ninh Bình: Hiến đất mở đường - Khi tinh thần cộng đồng tạo nên kỳ tích

LNV - Từ sự lãnh đạo quyết liệt của các cấp ủy đảng, chính quyền, tinh thần tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên cùng sự đồng thuận của nhân dân, phong trào hiến đất làm đường xây dựng nông thôn mới (NTM) ở Ninh Bình đã tạo nên những đổi thay rõ nét. Từng mét đường được mở rộng không chỉ mở lối cho xe cộ, hàng hóa giao thương thuận lợi, gắn kết cộng đồng, nâng cao đời sống nhân dân, mà còn là minh chứng sống động cho tinh thần “ý Đảng hợp lòng dân” lan tỏa khắp các vùng quê, đưa NTM phát triển bền vững.
Giữ hồn nghề, mở lối mới cho làng nghề Phú Thọ

Giữ hồn nghề, mở lối mới cho làng nghề Phú Thọ

LNV - Từ nón lá Sai Nga đến rượu men lá Mai Hạ, mỗi làng nghề ở Phú Thọ đều mang dấu ấn riêng, vừa lưu giữ hồn cốt văn hóa, vừa tạo sinh kế cho hàng vạn lao động. Song, trước sức ép của thị trường và sự thiếu vắng lớp thợ trẻ, làng nghề chỉ có thể bền vững khi mạnh dạn đổi mới công nghệ, xây dựng thương hiệu và gắn với du lịch, thương mại điện tử.
Cao Bằng: Làng nghề truyền thống vươn mình nhờ sức mạnh kinh tế tập thể

Cao Bằng: Làng nghề truyền thống vươn mình nhờ sức mạnh kinh tế tập thể

LNV - Các làng nghề truyền thống ở Cao Bằng đang khẳng định vị thế là động lực quan trọng, không chỉ tạo sinh kế bền vững mà còn góp phần tích cực vào công cuộc giảm nghèo và nâng cao đời sống người dân. Đặc biệt, mô hình hợp tác xã (HTX) chính là nhân tố quan trọng giúp các làng nghề phát huy tối đa tiềm năng, gia tăng giá trị sản phẩm và mở rộng thị trường, từ đó mang lại thu nhập ổn định và cải thiện đáng kể đời sống cho hàng nghìn hộ gia đình.

Tin khác

Nghề trồng dâu nuôi tằm – Hướng phát triển bền vững ở xã Đak Lua, Đồng Nai

Nghề trồng dâu nuôi tằm – Hướng phát triển bền vững ở xã Đak Lua, Đồng Nai

LNV - Nghề trồng dâu nuôi tằm là một trong những nghề truyền thống lâu đời tại Việt Nam, gắn liền với lịch sử sản xuất tơ lụa dân tộc. Tại xã Đak Lua, huyện Tân Phú (Đồng Nai), nghề này đã được duy trì và phát triển suốt hơn 30 năm, trở thành nguồn thu nhập chính cho nhiều hộ dân, đồng thời góp phần gìn giữ giá trị văn hóa làng nghề.
Làng nghề gửi hồn dân tộc đi khắp muôn phương

Làng nghề gửi hồn dân tộc đi khắp muôn phương

LNV - Những ngày cận kề Quốc khánh 2/9, không khí tại làng Từ Vân (xã Chương Dương, Hà Nội) trở nên nhộn nhịp lạ thường. Con đường làng yên bình bỗng rộn rã tiếng máy khâu, kéo cắt vải... như nhịp trống báo hiệu ngày lễ lớn đang đến gần. Với người dân nơi đây, ngày 2/9 không chỉ là dịp trọng đại của đất nước, mà còn là thời khắc thiêng liêng để họ góp phần lan tỏa hồn dân tộc qua từng lá cờ Tổ quốc.
Làng nghề lưỡi câu Mỹ Hòa vào mùa

Làng nghề lưỡi câu Mỹ Hòa vào mùa

LNV - Khi con nước bắt đầu "nhảy" khỏi bờ cũng là lúc làng nghề lưỡi câu Mỹ Hòa, phường Long Xuyên (tỉnh An Giang) trở nên nhộn nhịp. Dù đã qua thời hưng thịnh, nhưng vào mùa nước về, xóm nhỏ này vẫn vang lên âm thanh của tiếng máy mài giũa, tiếng máy cán, tiếng búa dập lưỡi câu đều đặn…
Xã Bát Tràng phát huy giá trị làng nghề truyền thống gắn với phát triển du lịch

Xã Bát Tràng phát huy giá trị làng nghề truyền thống gắn với phát triển du lịch

LNV - "Trong thời gian tới, xã Bát Tràng cần tiếp tục phát huy các giá trị làng nghề truyền thống gắn với phát triển du lịch. Trong đó, cần gắn các tour, tuyến du lịch sông Hồng với du lịch làng nghề, sinh thái, trải nghiệm", Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội Hoàng Trọng Quyết nói.
Làng nghề Ninh Bình đứng trước cơ hội bứt phá

Làng nghề Ninh Bình đứng trước cơ hội bứt phá

LNV - Ngày 1/7 vừa qua, tỉnh Ninh Bình mới chính thức được thành lập trên cơ sở hợp nhất ba tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình cũ. Với diện tích gần 4.000 km² và dân số hơn 4,4 triệu người, đứng thứ 6 cả nước, tỉnh Ninh Bình mới không chỉ tinh gọn bộ máy hành chính mà còn mở ra dư địa lớn để phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là lĩnh vực làng nghề truyền thống gắn với du lịch và công nghiệp văn hóa.
Bánh cuốn Thanh Trì – Niềm tự hào mới của văn hóa ẩm thực Hà Nội

Bánh cuốn Thanh Trì – Niềm tự hào mới của văn hóa ẩm thực Hà Nội

LNV - Mới đây, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chính thức công nhận nghề làm bánh cuốn Thanh Trì (phường Vĩnh Hưng, TP Hà Nội) là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, thuộc loại hình tri thức dân gian và nghề thủ công truyền thống. Sự kiện này đánh dấu bước phát triển quan trọng không chỉ với người dân Thanh Trì mà còn góp phần khẳng định giá trị văn hóa ẩm thực độc đáo của đất Thăng Long – Hà Nội.
Gìn giữ nghề mây tre đan truyền thống

Gìn giữ nghề mây tre đan truyền thống

LNV - Từ bao đời nay, hình ảnh cây tre đã gắn liền với làng quê Việt Nam, đặc biệt ở các vùng quê phía Đông của Đắk Lắk. Những lũy tre xanh không chỉ là biểu tượng văn hóa mà còn là nguồn nguyên liệu quý cho các làng nghề thủ công truyền thống, trong đó có làng nghề mây tre đan.
Đưa làng nghề hội nhập thế giới

Đưa làng nghề hội nhập thế giới

LNV - Hà Nội có 1.350 làng nghề, làng có nghề, hội tụ 47 nghề trong tổng số 52 nghề truyền thống cả nước. Việc làng nghề gốm sứ Bát Tràng và dệt lụa Vạn Phúc được công nhận là thành viên của Mạng lưới các thành phố thủ công sáng tạo thế giới tiếp tục mở ra cơ hội để các làng nghề Hà Nội phát triển, nâng tầm vị thế trên thị trường quốc tế.
Tinh hoa nghề gốm - Khúc hát từ đất, lửa và lòng người

Tinh hoa nghề gốm - Khúc hát từ đất, lửa và lòng người

LNV - Sông Hồng vào mùa tháng Ba, dòng nước đỏ nặng phù sa lững lờ trôi qua những bãi bồi xanh mướt. Bên triền sông, lửa lò nung ở Bát Tràng vẫn cháy rực, tiếng bàn xoay vẫn quay đều, nhịp chày vẫn gõ vang. Đất, nước, lửa - ba yếu tố tưởng chừng bình thường nhưng qua bàn tay khéo léo của người thợ gốm lại hóa thành những tác phẩm mang hồn Việt. Và giờ đây, tất cả những tinh túy ấy được ngân lên thành giai điệu trong ca khúc “Tinh hoa nghề gốm” - sáng tác mới của nhạc sĩ Tiến Hùng (thơ Thượng tá Nguyễn Hồng Hạnh).
Di sản gốm Chăm Bàu Trúc: Bảo tồn để phát triển

Di sản gốm Chăm Bàu Trúc: Bảo tồn để phát triển

LNV - Nghệ thuật làm gốm của người Chăm ở làng Bàu Trúc (Ninh Thuận) đã được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp vào năm 2022. Đây không chỉ là niềm tự hào của cộng đồng Chăm mà còn là động lực để các cấp chính quyền, nghệ nhân và người dân địa phương cùng chung tay bảo tồn, phát huy giá trị di sản, từng bước đưa gốm Bàu Trúc vươn ra thị trường và trở thành điểm nhấn du lịch văn hóa độc đáo của vùng đất nắng gió.
Đẹp ngỡ ngàng mùa tằm nhả tơ ở Hưng Yên

Đẹp ngỡ ngàng mùa tằm nhả tơ ở Hưng Yên

LNV - Nguyễn Trọng Cung đến xã Vũ Tiên, Hưng Yên - nơi có một trong những làng nghề trồng dâu, nuôi tằm lâu đời nhất. Tại đây, anh ghi lại những khoảnh khắc lao động giữa mùa tằm rộn ràng.
Làng Vạc - Nơi chiếc lược kể chuyện văn hóa của người Việt

Làng Vạc - Nơi chiếc lược kể chuyện văn hóa của người Việt

LNV - Trong thời đại “đỉnh cao” của vật liệu nhựa và máy móc công nghiệp, làng Vạc tại xã Thái Minh, TP.Hải Phòng (Bình Giang, Hải Dương cũ) vẫn bền bỉ giữ nghề làm lược tre có tuổi đời hàng trăm năm. Với hơn 30 công đoạn thủ công, mỗi chiếc lược không chỉ là sản phẩm của bàn tay lao động mà còn là kết tinh của đỉnh cao trí tuệ và sự cần mẫn.
Khô cá Đồng Tháp: Từ đặc sản dân dã đến thương hiệu vùng miền

Khô cá Đồng Tháp: Từ đặc sản dân dã đến thương hiệu vùng miền

LNV - Nằm ở vùng đầu nguồn sông Tiền, tỉnh Đồng Tháp được thiên nhiên ưu đã hệ thống sông ngòi dày đặc cùng nguồn thủy sản phong phú. Địa phương hội tụ điều kiện lý tưởng để hình thành, phát triển nghề làm khô cá - một trong những công việc truyền thống lâu đời.
Những chuyến “về làng” hấp dẫn

Những chuyến “về làng” hấp dẫn

LNV - Trong khuôn khổ Kỳ họp lần thứ 3 Hội đồng tư vấn Kinh doanh APEC (ABAC 3) diễn ra tại Hải Phòng từ ngày 15 đến 18-7, các đại biểu quốc tế có chuyến tham quan, trải nghiệm đầy thú vị tại làng gốm Chu Đậu - nơi được mệnh danh là cái nôi của dòng gốm cao cấp từng làm rạng danh thương hiệu gốm Việt trên trường quốc tế.
Làng nghề Cao Bằng xu hướng công nghệ 4.0

Làng nghề Cao Bằng xu hướng công nghệ 4.0

LNV - Các làng nghề truyền thống ở Cao Bằng không chỉ lưu giữ những giá trị văn hóa lâu đời mà còn góp phần tạo sinh kế, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Tỉnh Cao Bằng đang từng bước khẳng định hướng đi bền vững khi kết hợp phát triển làng nghề với du lịch, chuyển đổi số... bắt nhịp với xu hướng công nghệ 4.0.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Chuyển biến về môi trường ở làng nghề Đại Bái

Chuyển biến về môi trường ở làng nghề Đại Bái

LNV - Làng đúc đồng Đại Bái (xã Gia Bình) là một trong những địa phương phải thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh về việc dừng sản xuất, khắc phục triệt để ô nhiễm môi trường, không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế.
Bắc Ninh: Thực hiện tốt kế hoạch khuyến công

Bắc Ninh: Thực hiện tốt kế hoạch khuyến công

LNV - Trung tâm Khuyến công và Xúc tiến thương mại Bắc Giang, nay là Bắc Ninh đang triển khai các hoạt động khuyến công, phấn đấu hoàn thành tốt kế hoạch năm 2025.
Hội chợ Triển lãm hàng công nghiệp nông thôn năm 2025

Hội chợ Triển lãm hàng công nghiệp nông thôn năm 2025

LNV - Hội chợ Triển lãm hàng công nghiệp nông thôn năm 2025 sẽ được tổ chức tại hai địa phương là Hà Nội và Bắc Ninh với khoảng 250 gian hàng.
Người con Hậu Giang dành cho miền đất nghĩa tình

Người con Hậu Giang dành cho miền đất nghĩa tình

LNV - Sau khi sáp nhập vào thành phố Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Hậu Giang đứng trước cơ hội lớn khi trở thành một phần trung tâm kinh tế quan trọng ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), với nhiều lợi thế và tiềm năng phát triển. Mặc dù thay đổi địa giới, không ít người dân sinh ra, lớn lên tại địa phương vẫn luôn cảm thấy hoài niệm khi nhắc về vùng đất từng ghi dấu bao thế hệ truyền thống, khát vọng vươn lên cùng nhiều giá trị văn hóa đặc sắc.
Ngày tựu trường – Nơi yêu thương khởi nguồn tri thức

Ngày tựu trường – Nơi yêu thương khởi nguồn tri thức

LNV - Bão Kajiki đã qua và “bão lòng” tôi cũng không còn chút gợn khi ngày 25/8/2025 con vui vẻ, hào hứng đi tựu trường trở về nhà. Giờ đây con đang háo hức chờ đợi đến ngày khai giảng để được học tập trong ngôi trường khang trang, sạch đẹp và tràn ngập t
Giao diện di động