Làng nghề thời Văn Lang

LNV - Những hình ảnh chạm khắc trên mặt trống đồng được đúc tạo từ cách ngày nay trên dưới 2.500 năm, cho thấy người dân Văn Lang không chỉ đưa văn minh trồng lúa nước lên đỉnh cao, mà đã phát triển cực thịnh nhiều nghề tiểu thủ công nghiệp như: đúc đồng, chế tác đồ gỗ, làm mây tre đan, làm đồ gốm, trồng dâu nuôi tằm, dệt vải…

Đỉnh cao của nghề đúc đồng trên thế giới

Từ cách đây gần 1,5 thế kỷ, các nhà nghiên cứu người Pháp khi chứng kiến những chiếc trống đồng được phát hiện tại huyện Đông Sơn (Thanh Hóa) đã phác thảo ra một nền văn minh rực rỡ ở Đông Dương cách ngày nay hơn 2 thiên niên kỷ, đặt tên là “Nền Văn hóa Đông Sơn”. Văn hoá Đông Sơn được các nhà nghiên cứu trên thế giới đánh giá là trung tâm phát triển của Đông Nam Á, cũng là một nền văn hoá thời đại kim khí cách ngày nay khoảng 2000-2500 năm. Văn hoá Đông Sơn ra đời và phát triển rực rỡ dựa trên nền tảng của cả một quá trình hội tụ lâu dài từ những nền văn hoá trước đó. Nguồn gốc cơ bản để hình thành nên Văn hóa Đông Sơn đó là các giai đoạn "Tiền Đông Sơn" từ Phùng Nguyên, Đồng Đậu đến Gò Mun. Nền Văn minh Đông Sơn có nguốn gốc bản địa với địa bàn phân bố rộng (từ biên giới phía Bắc đến tỉnh Quảng Bình ở Bắc Trung Bộ) và bao gồm nhiều nhóm di tích có niên đại sớm, muộn khác nhau.

Làng nghề thời Văn Lang
Hoa văn trên mặt trống đồng Ngọc Lũ

Công cuộc truy tập và nghiên cứu trống đồng được triển khai bài bản bởi Viện Viễn Đông Bác Cổ, để rồi vào những năm đầu thế kỷ 20, nhà nghiên cứu người Áo F. Heger đã xuất bản tập sách "Những trống kim khí ở Đông Nam Á". Heger chia trống đồng thành bốn loại chính theo thứ tự từ cổ nhất đến gần đây nhất, gồm: Heger I, Heger II, Heger III và Heger IV. Trong đó, nhóm Heger I là những trống đồng có niên đại từ thế kỷ thứ VI Trước Công nguyên đến thế kỷ I trước công nguyên, cách ngày nay 2.500 năm đến 2.000 – đây là thuộc “loại cổ nhất, cơ bản nhất và từ loại này mà các loại khác ra đời”. Thống kê đến thời điểm hiện nay, trên thế giới đã phát hiện được tất cả gần 250 trống đồng Heger I. Trong đó, có 137 chiếc ở Việt Nam, 73 ở Trung Quốc (đều tập trung ở khu vực phía Nam các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam - gần với Việt Nam), 8 ở Thái Lan, 9 ở Lào, 2 ở Campuchia, 4 ở Malaysia, 12 ở Indonesia, và 5 ở Myanmar.

Trên thế giới, thời đại đồ đồng được cho là xuất hiện đầu tiên tại khu vực Trung Đông, nơi người cổ đại phát hiện ra những mỏ đồng đầu tiên vào cách ngày nay gần 4.00 năm. Theo nhiều nhà nghiên cứu, tại Bắc Bộ nước ta cách nay khoảng 2.500 năm, người xưa phát hiện ra những mỏ đồng lộ thiên lớn, thuộc loại đồng thau. Đây là loại đồng có lẫn kẽm, khi nấu chảy và để nguội tạo vật liệu

rắn hơn so với đồng đỏ. Nhờ có khối lượng đồng mỏ dồi dào, nghề chế tác đồng của cư dân Đông Sơn – Văn Lang đã phát triển lên đỉnh cao nhất thế gới lúc bấy giờ.

Cư dân Văn Lang không chỉ đúc trống đồng sử dụng làm nhạc cụ, mà còn chế tác rất nhiều công cụ, đồ vật bằng đồng, như bình, gò, thập, mâm, chậu, nồi đồng, chiêng, ché… Đặc biệt, sự ra đời của lưỡi cày đồng chính là loại công cụ tiến bộ nhất lúc bấy giờ, đánh dấu bước nhảy vọt trong nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước, cùng với sự bắt đầu phát triển các làng nghề tiểu thủ công nghiệp, đã đưa Văn Lang trở thành quốc gia cường thịnh.

Đến tham quan Bảo tàng Lịch sử quốc gia, được chiêm ngưỡng nhiều trống độc, trong đó trống đồng Ngọc Lũ được đánh giá là đẹp nhất, hoa văn tinh xảo nhất trên thế giới, cũng là một trong những trống đồng có kích thước lớn nhất. Trống đồng này được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia đợt 1 theo Quyết định số 1426/QĐ-TTg ngày 1/10/2012. Trống đồng Ngọc Lũ có niên đại khoảng 2.500 năm là biểu tượng cường thịnh của nền văn hóa Đông Sơn mà ở đó có đầy đủ yếu tố kỹ thuật đúc đồng, trình độ mỹ thuật và chế tác đồ đồng rất cao mà ngày nay chúng ta vẫn vô cùng thán phục. Không chỉ đúc trống đồng, mà người Việt cổ còn đúc nhiều sản phẩm khác như thạp đồng, trang sức bằng đồng…

Các làng nghề chế tác gỗ đã hưng thịnh

Các hình ảnh chạm khắc trên mặt, trên tang và thân trống đồng Ngọc Lũ cho ta nhìn thấy được đời sống, nhà cửa, nghề nghiệp của cư dân đất nước Văn Lang. Hình ảnh những ngôi nhà được khắc trên trống đồng, cho thấy nhà của người Việt xưa chủ yếu là nhà sàn làm bằng gỗ, mái cong, sàn thấp, mái rủ xuống như mái tranh đến tận sàn, có cầu thang lên xuống. Kiểu nhà này rất giống với nhà hình mai rùa của người dân tộc Mường ở Hòa Bình ngày nay. Điều này vô cùng dễ hiểu, bởi cư dân của nước Văn Lang xưa chủ yếu là người Mường. Cho đến thời kỳ Bắc thuộc, người Mường từ trên núi và trung du mới đi xuống vùng đồng bằng và hình thành người Kinh.

Làng nghề thời Văn Lang
Người Mường Hòa Bình

Nhìn bên ngoài ngôi nhà sàn của người Mường thời Văn Lang – Đông Sơn thường có bốn mái, hai mái trước và sau có hình thang cân; hai mái đầu hồi có hình tam giác cân. Kết cấu của nhà sàn người Mường được chịu lực bởi bộ khung bằng gỗ, thường có 2 vì kèo, 4 cột cái và 8 cột con, giữa hai đầu cột cái nối với nhau gọi là xà ngang, ngoài ra còn có các đòn tay nối các vì kèo với nhau và trên đòn tay có các hàng rui nối từ nóc nhà hàng mè nằm vuông góc với rui. Trên cùng gác trên đầu các vì kèo (nóc nhà) có đòn nóc. Sàn nhà thường lát bằng những cây bương hoặc bằng gỗ nhưng phổ biến vẫn là cây bương (cây bương to, già để cả cây theo chiều dài tự nhiên, bổ tách đôi và dát thanh từng miếng liền, xếp sát nhau trên toàn bộ diện tích sàn nhà). Cột nhà làm bằng gỗ tròn hoặc vuông nhưng phổ biến là tròn; chân cột thường được chôn xuống đất nhưng cũng có nơi dùng các hòn đá tảng để kê.

Khác với người bên Trung Hoa thời kỳ đó, ngựa là phương tiện đi lại chủ yếu, thì trên mặt trống đống Ngọc Lũ nói riêng, trống đồng Đông Sơn nói chung không có hình ảnh ngựa hoặc người cưỡi ngựa. Phương tiện đi lại phổ biến của cư dân Văn Lang là thuyền trên các con sông rạch. Những hình ảnh nhà gỗ, thuyền gỗ trên trống đồng, cùng với nhiều di vật bằng gỗ còn tìm thấy với niên đại hơn 2.000 năm, cho thấy vào thời đại Văn Lang, không chỉ nghề đúc đồng phát triển, mà nghề chế tác đồ gỗ cũng đã rất thịnh, từ làm nhà bằng gỗ, đóng thuyền gỗ, chế tác tượng và đồ thủ công bằng gỗ.

Một trong những khối di sản khảo cổ tìm thấy của nền văn hóa thời Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2.500 năm, đó là “Mộ thuyền Đông Sơn”. “Với người Việt từ cách đây hàng nghìn năm, ma chay là một tục lệ quan trọng, nên mộ thuyền Đông Sơn trở thành di sản quan trọng trong khảo cổ ở nước ta. Mộ thuyền Đông Sơn lại mang tâm thức Việt rất rõ”, PGS.TS Bùi Văn Liêm, nguyên Phó viện trưởng Viện Khảo cổ nhận định.

Làng nghề thời Văn Lang
Nhà mai rùa của người Mường 2

Đã có hàng trăm chiếc quan tài mộ thuyền thời Đông Sơn đã được tìm thấy ở nước ta, đang được bảo lưu gìn giữ tại hệ thống các Viện bảo tàng, các Viện nghiên cứu trên toàn quốc. Mộ thuyền Đông Sơn thường có cấu trúc là một đoạn thân cây gỗ tròn hoặc gần tròn, khoét rỗng hình lòng máng, hai đầu chừa lại (hoặc ghép thêm ván) làm vách ngăn. Liên kết tấm thiên và tấm địa là những lỗ chốt hoặc mộng khớp, một số áo quan có 4 tay khiêng 4 góc của tấm thiên và tấm địa. Trong lòng những con thuyền đầy tính tâm linh ấy, người Việt thời xa xưa đặt vào đó rất nhiều đồ quý. Khảo cổ học cho thấy đại đa số đồ tùy táng là di vật điển hình của văn hóa Đông Sơn. Một số di vật trong mộ thuyền có đặc trưng riêng như đồng lưỡi xéo gót nhọn, cuốc sắt, công cụ xới đất bằng gỗ... là những nông cụ thích ứng canh tác ruộng trũng. Những trống đồng, thạp đồng hoa mỹ cũng thấy trong mộ thuyền. Còn có cả bộ vũ khí với số lượng nhiều nhất là lao thích ứng với thủy chiến trên thuyền vùng sông nước.

Nghề nông, chăn nuôi, dệt lụa

Các vật dụng sinh hoạt gia đình của người dân Văn Lang rất phong phú, đa dạng chất liệu bằng gốm, đồ đựng bằng tre, nứa, mây... cho thấy các nghề thủ công mỹ nghệ như nung gốm, nghề mây tre đan đã phát triển từ thời bấy giờ.

Nền văn minh lúa nước ra đời cách đây khoảng 10.000 năm tại vùng Đông Nam Á. Vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên, công cụ lao động bằng đồng thau đã trở nên phổ biến và bắt đầu có công cụ bằng sắt. Nhờ vậy, cư dân đã khai phá và biến vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cả thành những cánh đồng màu mỡ với nền nông nghiệp trồng lúa nước, dùng cày với sức kéo của trâu, bò. Thóc gạo là nguồn lương thực chủ yếu của cư dân Văn Lang. Họ biết dùng gạo nếp để thổi cơm, làm bánh chưng, bánh giầy. Để phục vụ canh tác nông nghiệp, họ đã tự chế tạo ra những công cụ phù hợp để sản xuất và khai thác như cuốc, liềm, cối....

Những hình ảnh chạm khắc trên mặt trống đồng cho thấy nghề chăn nuôi đã phát triển vào thời đại Văn Lang. Người Việt cổ đã biết trồng dâu, nuôi tằm, dệt tơ tằm bông. Bên cạnh đó còn bắt cá, tôm, trồng rau củ và chăn nuôi gia súc, gia cầm.

Làng nghề thời Văn Lang
Trống đồng ngọc Lũ ở Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Những hình ảnh trên trống đồng cũng cho thấy vào thời đại Văn Lang, nghề dệt đã rất phát triển, họ đã sản xuất được nhiều loại vải khác nhau từ sợi đay, gai, tơ tằm, bông... Trong cuộc sống hằng ngày nam thường đóng khố, nữ mặc váy. Khố của nam giới có hai loại đó là loại quấn đơn và loại quấn kép. Váy của nữ giới có loại váy quấn và loại váy chui được làm từ một mảnh vải dài, rộng. Phụ nữ còn có yếm che kín ngực, áo xẻ giữa, thắt lưng quấn ngang bụng và khăn quấn đầu. Vào các ngày lễ hội, trang phục của họ rất đẹp: mũ có lông chim, váy xòe kết bằng lông chim hoặc lá cây mang nhiều đồ trang sức đẹp như khuyên tai, hạt chuỗi, nhẫn, vòng tay... Chính sự phát triển về kinh tế, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của nghề thủ công và kỹ thuật luyện kim tạo điều kiện cho sự đa dạng phong phú những mẫu trang sức.

Chu Minh Khôi

Tin liên quan

Tin mới hơn

Làng gốm Bát Tràng chuyển mình nhờ chuyển đổi số

Làng gốm Bát Tràng chuyển mình nhờ chuyển đổi số

LNV - Làng gốm Bát Tràng là một trong những làng nghề luôn đi đầu trong việc giữ gìn, bảo tồn và phát triển những giá trị truyền thống. Giữa thời đại công nghệ đang phát triển, người dân làng nghề đã mạnh dạn áp dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số qua các nền tảng trực tuyến để vươn ra thị trường.
Chuyển đổi số để làng nghề Việt Nam vươn xa và giữ hồn truyền thống

Chuyển đổi số để làng nghề Việt Nam vươn xa và giữ hồn truyền thống

LNV - Chuyển đổi số đang trở thành xu thế tất yếu, mở ra cơ hội mới cho các làng nghề truyền thống Việt Nam trong việc mở rộng thị trường, nâng cao giá trị sản phẩm và phát triển bền vững. Nhân kỷ niệm 20 năm thành lập Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, phóng viên đã có cuộc trao đổi với Ông Trịnh Quốc Đạt – Nhà giáo ưu tú, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, về hành trình chuyển đổi số của các làng nghề trong bối cảnh hiện nay.
Gìn giữ nghề làm hương Tày ở Pác Nghè

Gìn giữ nghề làm hương Tày ở Pác Nghè

LNV - Giữa nhịp sống hiện đại, thôn Pác Nghè (Thái Nguyên) vẫn lưu giữ nghề làm hương Tày truyền thống qua nhiều thế hệ. Những bó hương thơm dịu từ thảo mộc rừng không chỉ giữ gìn nét văn hóa lâu đời của đồng bào Tày, mà còn tạo sinh kế, giúp nhiều hộ dân có thu nhập ổn định, đặc biệt vào dịp lễ Tết.
Bắc Ninh gìn giữ và phát huy giá trị trăm nghề trong thời hội nhập

Bắc Ninh gìn giữ và phát huy giá trị trăm nghề trong thời hội nhập

LNV - Bắc Ninh là vùng đất trăm nghề đang nỗ lực gìn giữ và phát huy giá trị làng nghề truyền thống. Từ gốm Phù Lãng đến rượu Làng Vân, nhiều cơ sở sản xuất mạnh dạn đổi mới, xây dựng thương hiệu, góp phần tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân.
Làng nghề miền sơn cước xứ Thanh vào vụ Tết

Làng nghề miền sơn cước xứ Thanh vào vụ Tết

LNV - Những ngày cuối năm, khi sương núi còn giăng trên các triền đồi, không khí ở nhiều xã vùng cao Thanh Hóa trở nên rộn ràng hơn bao giờ hết. Từ tiếng thoi đưa của những khung dệt thổ cẩm ở Pù Luông đến những bếp lửa đỏ rực làm kẹo nhãn ở Linh Sơn, các làng nghề đang tất bật vào vụ Tết, lưu giữ và lan tỏa những giá trị văn hóa đặc sắc của miền sơn cước.
Chuyên Mỹ tìm giải pháp bảo tồn và phát triển làng nghề

Chuyên Mỹ tìm giải pháp bảo tồn và phát triển làng nghề

LNV - Vừa qua, Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội phối hợp với UBND xã Chuyên Mỹ và Hiệp hội Thủ công mỹ nghệ và Làng nghề Hà Nội tổ chức hội thảo với chủ đề “Giải pháp bảo tồn và phát triển làng nghề gắn với du lịch, chuyển đổi số”.

Tin khác

Nón ngựa Phú Gia trở thành sản phẩm du lịch độc nhất vô nhị của tỉnh Gia Lai

Nón ngựa Phú Gia trở thành sản phẩm du lịch độc nhất vô nhị của tỉnh Gia Lai

LNV - Tháng 4/2024, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi danh nghề chằm nón ngựa Phú Gia vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và mới đây, UBND xã Xuân An long trọng tổ chức Lễ công bố và ra mắt sản phẩm du lịch tại Làng nghề nón ngựa Phú Gia, mở ra hướng đi mới cho nón ngựa Phú Gia trở thành sản phẩm du lịch độc nhất vô nhị của tỉnh Gia Lai.
Một đời thổi hồn vào nghề thêu giữa lòng phố cổ

Một đời thổi hồn vào nghề thêu giữa lòng phố cổ

LNV - Thêu vi tính là kỹ thuật thêu ứng dụng công nghệ số vào nghề thêu truyền thống để tạo ra sản phẩm với độ chính xác cao, đồng đều và đáp ứng nhu cầu sản xuất hiện đại. Là một trong những người đặt nền móng cho nghề thêu vi tính ở Hà Nội, ông Bùi Thế Thái vẫn ngày ngày miệt mài thổi lửa nghề giữa lòng phố cổ.
Chuyên Mỹ: Bảo tồn làng nghề truyền thống gắn với du lịch và chuyển đổi số

Chuyên Mỹ: Bảo tồn làng nghề truyền thống gắn với du lịch và chuyển đổi số

Trong bối cảnh phát triển nông thôn mới gắn với kinh tế xanh và kinh tế số, Sở Nông nghiệp và Môi trường đã chủ trì triển khai chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề xã Chuyên Mỹ gắn với du lịch và chuyển đổi số. Chương trình nhằm phát huy giá trị văn hóa truyền thống của làng nghề, đồng thời tạo động lực đổi mới phương thức sản xuất, quảng bá sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân và thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn theo hướng bền vững.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ và xu thế tiêu dùng hiện nay

Sản phẩm thủ công mỹ nghệ và xu thế tiêu dùng hiện nay

LNV - Trong bối cảnh kinh tế – xã hội có nhiều biến động, xu hướng tiêu dùng của thị trường trong nước và quốc tế đang thay đổi mạnh mẽ theo hướng đề cao giá trị bền vững, tính cá nhân hóa và bản sắc văn hóa. Những chuyển dịch này vừa đặt ra thách thức, vừa mở ra nhiều cơ hội mới cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ, lĩnh vực gắn liền với làng nghề truyền thống và sinh kế của hàng triệu lao động nông thôn.
Trà sen Quảng An Hương Thủy: Sản phẩm OCOP mang đậm bản sắc văn hóa Hà Nội

Trà sen Quảng An Hương Thủy: Sản phẩm OCOP mang đậm bản sắc văn hóa Hà Nội

HTX Trà Sen Hương Thủy ra đời từ tình yêu của bà Trần Thị Thủy - GIám đốc HTX sinh ra và lớn lên giữa làng sen Quảng Bá, Tây Hồ, nơi tuổi thơ gắn liền với hương sen, với làng nghề bao đời gìn giữ nét tinh hoa của đất Hà Thành. Từ tình yêu sen và khát vọng phát triển nghề quê, bà Trần Thị Thủy bắt đầu bằng việc thành lập hộ kinh doanh nhỏ, chuyên ướp trà sen theo phương pháp cha ông truyền lại.
Bát Tràng phát huy giá trị làng nghề, kết nối OCOP với phát triển du lịch Thủ đô

Bát Tràng phát huy giá trị làng nghề, kết nối OCOP với phát triển du lịch Thủ đô

LNV - Tối 18/12, tại xã Bát Tràng (huyện Gia Lâm), Sở Công Thương Hà Nội tổ chức khai mạc Triển lãm quảng bá, giao thương kết nối sản phẩm OCOP, thủ công mỹ nghệ và làng nghề phục vụ du lịch năm 2025.
Nhân rộng những mô hình HTX tiêu biểu, thúc đẩy kinh tế tập thể phát triển

Nhân rộng những mô hình HTX tiêu biểu, thúc đẩy kinh tế tập thể phát triển

Từ những cánh đồng, trang trại, vùng nuôi trồng, nhiều hợp tác xã đã vươn lên trở thành mô hình tiêu biểu cấp quốc gia. Thành công từ liên kết sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ và xây dựng thương hiệu không chỉ giúp nâng cao đời sống nông dân, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm mà còn khẳng định vai trò hạt nhân của kinh tế tập thể trong phát triển nông thôn mới. Từ những mô hình điển hình đó, đã góp phần đưa kinh tế tập thể phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Tăng sức cạnh tranh từ chuỗi giá trị: Câu chuyện liên kết của chè Thu Đan và lụa Vạn Phúc

Tăng sức cạnh tranh từ chuỗi giá trị: Câu chuyện liên kết của chè Thu Đan và lụa Vạn Phúc

Trong bối cảnh thị trường ngày càng đòi hỏi chất lượng ổn định, câu chuyện nâng cao sức cạnh tranh không còn dừng ở từng sản phẩm đơn lẻ mà nằm ở khả năng liên kết chặt chẽ trong toàn bộ chuỗi giá trị. Từ nguyên liệu, quy trình sản xuất, tiêu chuẩn hóa đến xây dựng thương hiệu và tiêu thụ, mỗi mắt xích đều ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế của sản phẩm trên thị trường.
Xu thế thị trường trong và ngoài nước – cơ hội mới cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ Hà Nội

Xu thế thị trường trong và ngoài nước – cơ hội mới cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ Hà Nội

LNV - Hà Nội là trung tâm lớn của cả nước về làng nghề và ngành thủ công mỹ nghệ, nơi hội tụ hàng trăm làng nghề truyền thống với lịch sử lâu đời, kỹ thuật tinh xảo và giá trị văn hóa đặc sắc. Trong bối cảnh thị trường trong nước và quốc tế đang chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng tiêu dùng bền vững, cá nhân hóa và đề cao bản sắc văn hóa, sản phẩm thủ công mỹ nghệ Hà Nội đứng trước nhiều cơ hội mới để mở rộng thị trường và nâng cao giá trị.
Giữ lửa men đất Phú Lễ trong hành trình phát triển bền vững

Giữ lửa men đất Phú Lễ trong hành trình phát triển bền vững

LNV - Giữa vùng đất Ba Tri xưa, làng nghề rượu Phú Lễ hơn trăm năm tuổi vẫn đỏ lửa qua nhiều thế hệ. Từ bí quyết men cổ truyền, Phú Lễ hôm nay đang chuyển mình thành điểm giao thoa giữa bảo tồn làng nghề, du lịch trải nghiệm và mô hình kinh tế tuần hoàn gắn với cộng đồng.
Thiết kế sáng tạo – chìa khóa đưa sản phẩm thủ công Hà Nội ra thế giới

Thiết kế sáng tạo – chìa khóa đưa sản phẩm thủ công Hà Nội ra thế giới

LNV - Hà Nội là vùng đất hội tụ tinh hoa của hàng trăm làng nghề truyền thống, nơi kết tinh kỹ thuật thủ công tinh xảo, giá trị văn hóa lâu đời và bản sắc riêng có của Thủ đô. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, thị trường tiêu dùng toàn cầu liên tục biến đổi, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ không chỉ cần “giữ nghề” mà còn phải đổi mới tư duy phát triển. Thực tiễn cho thấy, thiết kế sáng tạo đang trở thành chìa khóa quan trọng giúp sản phẩm thủ công Hà Nội nâng cao giá trị, mở rộng thị trường và từng bước khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Làng nghề miền Tây vào vụ Tết

Làng nghề miền Tây vào vụ Tết

LNV - Những ngày cuối năm, không khí sản xuất tại nhiều làng nghề đặc sản ở miền Tây trở nên nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Từ sáng sớm đến khuya, tiếng máy móc, tiếng nói cười rộn ràng vang lên khắp các xưởng sản xuất, báo hiệu mùa cao điểm phục vụ thị trường Tết đã bắt đầu. Tuy nhiên, phía sau sự tất bật ấy là những gam màu trái ngược: có nơi đầy lạc quan nhờ đơn hàng tăng mạnh, có nơi lại không khỏi lo lắng vì chi phí đầu vào leo thang, sức mua khó dự đoán.
Làng Ngâu – Hương rượu cúc chi níu giữ hồn quê Đại Thanh

Làng Ngâu – Hương rượu cúc chi níu giữ hồn quê Đại Thanh

LNV - Nằm ven đô Hà Nội, làng Ngâu, xã Đại Thanh từ lâu đã được biết đến là vùng đất cần cù, nơi lưu giữ một nghề truyền thống độc đáo: nấu rượu cúc chi. Trải qua bao thăng trầm của thời gian, nghề nấu rượu nơi đây vẫn được người dân gìn giữ như một phần máu thịt của làng quê, kết tinh từ bàn tay lao động, kinh nghiệm dân gian và hương sắc của loài hoa cúc chi thuần khiết.
Đầu tư 205 tỷ đồng bảo vệ và phát huy nghệ thuật làm gốm của người Chăm

Đầu tư 205 tỷ đồng bảo vệ và phát huy nghệ thuật làm gốm của người Chăm

LNV - UBND tỉnh Khánh Hòa vừa phê duyệt Đề án Quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể “Nghệ thuật làm gốm của người Chăm” giai đoạn 2025 – 2028 và những năm tiếp theo. Đây là bước đi quan trọng nhằm bảo tồn một di sản văn hóa độc đáo đang đứng trước nguy cơ mai một, đồng thời tạo nền tảng để phát triển kinh tế xã hội gắn với du lịch và làng nghề truyền thống.
Làng nghề Thái Nguyên tìm hướng phát triển từ kinh tế sáng tạo

Làng nghề Thái Nguyên tìm hướng phát triển từ kinh tế sáng tạo

LNV - Dưới tác động mạnh mẽ của chuyển đổi số, các làng nghề truyền thống đang từng bước tìm thấy hướng phát triển mới gắn với kinh tế sáng tạo. Tại Thái Nguyên, vùng đất nổi tiếng với cây chè, xu hướng này đang ngày càng rõ nét, đặc biệt với sự tham gia của lực lượng lao động trẻ.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Gia Lai: Công tác tuyên giáo và dân vận tạo nền tảng tư tưởng vững chắc cho chặng đường phát triển mới

Gia Lai: Công tác tuyên giáo và dân vận tạo nền tảng tư tưởng vững chắc cho chặng đường phát triển mới

LNV - Năm 2025 khép lại với nhiều dấu ấn quan trọng trong công tác tuyên giáo và dân vận của tỉnh Gia Lai. Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước tiếp tục diễn biến phức tạp, thiên tai, bão lũ tác động không nhỏ đến đời sống Nhân dân, Ban Tuyên g
Người dân Gia Lai vui mừng đón nhà mới “Chiến dịch Quang Trung” do Công an xây dựng

Người dân Gia Lai vui mừng đón nhà mới “Chiến dịch Quang Trung” do Công an xây dựng

LNV - Công an tỉnh Gia Lai vừa bàn giao hai căn nhà đầu tiên trong số 20 căn nhà được Bộ Công an hỗ trợ kinh phí và Công an tỉnh xây dựng trong “Chiến dịch Quang Trung” cho người dân ở tỉnh Gia Lai. Đó là ngôi nhà ông Phạm Đình Ba (SN 1970) ở thôn Háo Lễ,
Từ Nghị quyết 71-NQ/TW đến bước chuyển chiến lược của giáo dục nghề nghiệp

Từ Nghị quyết 71-NQ/TW đến bước chuyển chiến lược của giáo dục nghề nghiệp

LNV - Trong quá trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Nhiều chủ trương, chính sách lớn đã được ban hành, thúc đẩy giáo dục và đào tạo đổi mới, phát triển mạnh mẽ,
Làng gốm Bát Tràng chuyển mình nhờ chuyển đổi số

Làng gốm Bát Tràng chuyển mình nhờ chuyển đổi số

LNV - Làng gốm Bát Tràng là một trong những làng nghề luôn đi đầu trong việc giữ gìn, bảo tồn và phát triển những giá trị truyền thống. Giữa thời đại công nghệ đang phát triển, người dân làng nghề đã mạnh dạn áp dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số
Hội Cựu chiến binh xã Đào Xá hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao

Hội Cựu chiến binh xã Đào Xá hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao

LNV - Xã Đào Xá (Phú Thọ) được thành lập trên cơ sở sáp nhập 4 xã cũ gồm Thạch Đồng, Tân Phương, Xuân Lộc và Đào Xá, xã có địa bàn rộng với dân số đông. Hội Cựu chiến binh (HCCB) toàn xã có 43 chi hội ở 43 khu dân cư, với tổng số 2.474 hội viên và 2.377 g
Giao diện di động