Giữ gìn bản sắc văn hóa làng nghề cần phải gắn liền với phát triển kinh tế du lịch
Lụa Vạn Phúc – Biểu tượng văn hóa của đất Hà Đông
Cũng giống như các làng nghề dệt khác ở vùng châu thổ sông Hồng, xuất phát từ nhu cầu tự cung tự cấp, tận dụng thời gian nhàn rỗi, những người nông dân tài hoa đã phát triển nghề thủ công truyền thống ngày một cao hơn. Nhờ có vị trí địa lý thuận lợi, hoàn cảnh lịch sử và tính cách con người mang lại cho nơi đây sự tôn vinh cao quý.
Làng Vạn Phúc có vị trí địa lý rất đẹp, là một hình thoi trải dài giữa hai đường giao thông, đường thủy và đường bộ. Phía Đông giáp sông Nhuệ, phía Tây giáp đường quốc lộ 70, cung đường Quốc lộ 70 bao quanh phía Tây Hà Nội, nơi tập trung rất nhiều làng nghề thủ công lâu đời quanh đất kinh kỳ lịch sử. Phía nam tiếp giáp Ngọc Trục, Đại Mỗ.
Hà Đông là vùng đất cổ xưa của Đồng bằng Bắc Bộ, nằm tiếp giáp với Hà Nội và có nền kinh tế hàng hóa sớm phát triển. Nơi đây cũng là mảnh đất trăm nghề nổi tiếng với nhiều nghề thủ công truyền thống như: Làm nón, đúc lưỡi cày, lười bừa, làm mộc, pháo, tiện gỗ, khảm chai...đặc biệt nổi tiếng với nghề diệt lụa và thêu ren: Làng Vạn Phúc ngày nay là phường Vạn Phúc nằm trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội khi xưa có tên gọi là Vạn Bảo thuộc tổng Thiên Mỗ bao gồm 7 xã thôn: Thiên Mỗ, Tây Mỗ, Vạn Bảo, Mỗ Lao, Ngọc Trục, Hồng Đô, Phùng Quang thuộc huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Sang thời Nguyễn, xã Thượng Thanh Oai có bốn thôn là Cầu Đơ, Kiều Trì, Văn Quán, Vạn Bảo, riêng làng Vạn Bảo nằm ở bên kia sông Cầu Am nên khi chia lại địa giới hành chính đổi sang thuộc tổng Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Đến đầu thế kỷ XX, do kiêng húy tên vua Thành Thái (1889-1906) là Bảo Lân nên mới đổi thành Vạn Phúc. Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công làng Vạn Phúc là đơn vị hành chính thuộc thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây.
Các cụ cao tuổi làng Vạn Phúc kể lại, từ xưa, người Mỗ Lao ở bên kia sông Nhuệ đã chuyển sang bên này sông lập trại sinh sống. Khi mới định cư, người Vạn Phúc chỉ sống bằng nghề trồng cây lương thực và chăn nuôi. Hoàn cảnh kinh tế tự cấp, tự túc đã đưa người dân làng Vạn Phúc đến với nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa. Trong quá trình phát triển, bên cạnh nghề nông, nghề dệt dần dần trở thành nguồn sống chính của làng.
Tư liệu tại Viện nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được 11 đạo sắc phong. Trong điều kiện tư liệu còn ít ỏi về sự phát triển của làng Vạn Phúc trong thời kỳ phong kiến thì 11 đạo sắc phong này cũng đưa lại cho chúng ta một số nét về sự phát triển của làng. Đạo sắc phong năm Bảo Hưng thứ nhất (1801) đời Tây Sơn thấy ghi duệ hiệu Đức thánh có đến hơn hai mươi mỹ tự mà theo quy định xưa thì mỗi đợt gia phong thường chỉ là hai đến ba mỹ tự. Đến triều Nguyễn, mặc dù đã có tiền lệ ban cấp sắc phong từ đời Lê, Tây Sơn nhưng các vua đầu triều Nguyễn như Gia Long (1802-1820), Minh Mạng (1821-1840), Thiệu Trị (1841-1847) đều không ban sắc phong cho thành hoàng làng Vạn Phúc. Mãi đến năm Tự Đức thứ 6 (1853) đình làng Vạn Phúc mới tiếp tục nhận được sắc phong. Theo quy chế ban cấp sắc phong thời xưa, một địa phương không được cấp sắc chỉ có hai lý do. Một là vị thần mà dân làng tôn thờ không phải là chính thần mà thuộc loại tà thần, dâm thần không được phép thờ. Hai là dân làng không chịu tuân theo giáo hóa của triều đình. Theo các cụ cao tuổi làng Vạn Phúc thì nghiêng về lí do thứ hai. Thời Tây Sơn, dân làng Vạn Phúc dốc sức ủng hội phong trào. Nghĩa cử ủng hộ phong trào Tây Sơn ấy đã gây mối phản cảm đối với các vua đầu triều Nguyễn vì thế nên không có sắc phong.
Theo sử sách, từ trước công nguyên người Lạc Việt đã biết trồng dâu, nuôi tằm. Đến các thế kỷ đầu sau công nguyên, người Việt đã có giống tằm một năm tám lứa kén. Thời kỳ nhà Đường đô hộ đã thu thuế nhân dân ta bằng tơ lụa và nghề dệt tơ lụa đã trở thành một nghề thủ công quan trọng và phổ biến. Khi đánh thuế, chính quyền đô hộ cũng nhằm vào sản phẩm tơ lụa để vơ vét. Nhất là, nhà Đường còn quy định mỗi châu nộp thuế phải tương đương giá trị 50 tấn lụa. Như vậy, lúc này tơ lụa không chỉ là sản phẩm phổ biến, gần gũi với đời sống nhân dân, mà còn được chọn làm vật ngang giá chung trong lĩnh vực thu thuế.
Từ khi mới đến lập cư, người dân Vạn Phúc mới chỉ sống bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, dân số của Vạn Phúc ngày càng đông đúc, trong khi ruộng đất sản xuất nông nghiệp ít, năng suất lúa thấp không đảm bảo cho đời sống của nhân dân. Từ đó, thôi thức cư dân trong làng tìm kiếm thêm nghề phụ để đảm bảo nhu cầu cho cuộc sống. Ngoài ra, Vạn Phúc có vị trí thuận lợi, gần nguồn tơ tằm sông Đáy, gần trung tâm kinh tế chính trị sầm uất của tỉnh Hà Đông, lại có giao thông thủy, bộ thuận tiện nên đã sớm tiếp nhận nghề dệt lụa. Nhờ bàn tay tài hoa khéo léo, ý chí quyết tâm, tài năng sáng tạo, người dân Vạn Phúc làm nên sản phẩm dệt lụa nổi tiếng trong nước và ngoài nước
Nghề dệt ở làng Vạn Phúc có từ rất lâu đời, hiện nay không còn tài liệu nào nói đến sự ra đời của nghề dệt ở Vạn Phúc. Trong dân gian chỉ còn lưu truyền những truyền thuyết phản ánh vấn đề này. Dân làng có câu vè:
Gặp cô quê ở La Khê
Nhân vui nói chuyện về nghề làm the
Nghề này khởi tận triều Lê
Tướng quân mười vị dạy nghề mới sang.
Căn cứ vào câu vè trên, một số người cho rằng nghề dệt do vị tướng quân người Tứ Xuyên, Trung Quốc sang dạy cho làng La Khê rồi sau đó mới truyền sang làng Vạn Phúc. Còn thời gian truyền nghề, câu vè chỉ nói “khởi tận triều Lê”, còn thời Lê hay Lê Sơ thì không nói rõ.
Một truyền thuyết khác được lưu truyền rộng rãi trong dân làng Vạn Phúc được nhiều người chấp nhận hơn là truyền thuyết về bà tổ nghề Lã Thị Nga. Hiện nay, người dân trong làng vẫn còn lưu giữ bản thần tích do lễ Bộ Thượng thư Đông Các Đại học Nguyễn Bính biên soạn năm 1739 có nói về bà Lã Thị Nga truyền nghề cho dân nhân.
Có thể tóm tắt truyền thuyết của bà như sau: Thời con gái bà nổi tiếng xinh đẹp và là cô thợ may khéo ở đất Kinh Kỳ. Khi Cao Biền nhà Đường (Trung Quốc) được cử sang nước ta làm tiết độ sứ, xây thành Đại La (Hà Nội ngày nay) đã lấy bà làm vợ để trông nom khu vực phường cửi trong thành. Sau khi Cao Biền về nước, bà rời đến làng Vạn Phúc ở. Bà Lã Thị Nga còn mời thêm một bà cụ giỏi nghề dệt lụa về dạy cho dân làng. Sau khi bà hóa, dân làng nhớ ơn xây miếu thờ tại chỗ hóa và tôn bà làm Thành Hoàng làng. Tại đình làng Vạn Phúc nơi thờ bà, trong hậu cung còn đặt một cái kéo, một cái vạch và một cái thước sơn son thiếp vàng đặt trước bài vị. Sau khi bà Lã Thị Nga hóa, bà cụ thợ già cũng trở về quê và mất tại quê. Dân làng nhớ ơn lập đền thờ bà gọi là Đền Phường Cửi.
Hiện nay, trong đình làng, nơi thờ bà còn lưu giữ được 11 đạo sắc phong tuy không nói rõ quá trình bà dạy nghề cho dân trong làng diễn ra như thế nào, nhưng đều ca ngợi công đức, phẩm hạnh của bà và tôn bà là Thành Hoàng của làng “Lã Thị Nương nương Nga Hoàng Đại Vương”. Đây là một cơ sở quan trọng để chúng ta xác định rõ hơn về vị tổ nghề dệt làng Vạn Phúc và sự ra đời của nghề dệt. Ngoài ra, ở đình làng còn có đôi câu đối nói về hành trang của Bà, dịch nghĩa như sau: Theo lòng trời thần ban đất, gia ân cho dân, một ấp sống chung duy phép thần mới bảo vệ được. Đức lớn như lòng đất, trừ tai cản họa cho tứ dân mới an cư lạc nghiệp chỉ có lòng người mẹ mới giúp được dân như vậy. Theo tài liệu của Dương Bá Phượng trong tác phẩm Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, cho rằng: Làng Vạn Phúc (Hà Tây) nổi tiếng về nghề dệt lụa có từ cách đây khoảng 1000 năm (từ thời nhà Lý chuyển kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long) được hình thành cùng với vùng tơ tằm Hà Đông.
Đến thế kỷ XII, XIII, khi Nho giáo bắt đầu phát triển ở Đại Việt thì sự thay đổi về trang phục như: Quốc phục, áo dài chuyển sang màu đen làm cho nhu cầu về tơ lụa lại càng lớn, tác động đến sự phát triển của nghề dệt lụa Vạn Phúc. Nhất là thời nhà Trần, mức sản xuất tơ lụa của Vạn Phúc nói riêng, cả nước nói chung đã rất phát triển, phong phú về các loại sản phẩm. Việc tiêu dùng tơ lụa rất phổ biến, phần lớn nhân dân đều mặc quần, áo đen may bằng lụa, hoặc dệt bằng tơ.
Đến thời Hậu Lê, người dân Vạn Phúc đã phát triển nghề dệt từ vải đến trồi đũi lụa, sang the, lương, vân, sa và đặc biệt là dệt gấm. Theo tài liệu của Ban quản lý tôn tạo di tích phường Vạn Phúc: Vào năm 1614 ở Trung Quốc nhà Minh suy yếu, bị nhà Thanh chiếm ngôi, có ba gia đình họ Lý làm quan ở Vân Nam, không chịu hàng phục nhà Thanh, chốn sang Đại Việt cư trú, ở Đông Đô, tức là Hà Nội ngày nay. Riêng vợ chồng ông thứ ba, vợ là Hoàng Từ Phụ, chồng là Lý Khắc Quý, mở ra dệt the. Như vậy, dệt the lương có go võng có từ thời hậu Lê.
Nghề dệt ở làng Vạn Phúc đã ra đời từ rất sớm, có thể từ thế kỷ VIII vào lúc nhà Đường đô hộ nước ta. Trong sử cũ còn chép lại lúc bấy giờ nước ta gọi là “An Nam đô hộ phủ”, dân ta phải cống nộp cho vương triều phương Bắc những cống phẩm quý giá như: tơ lụa, the, đồ mây… Nhưng nếu muộn hơn thì nghề dệt ở đây cũng đã có từ thời Lê sơ (thế kỷ XV) và bề dày thời gian là khoảng hơn 500 năm cách ngày nay.
Dệt làng Vạn Phúc đã nhanh chóng được các vua quan và các tầng lớp nhân dân ưa chuộng. Các vua triều Nguyễn từ Gia Long đến Bảo Đại đều sai người về làng Vạn Phúc mua sa, gấm, lụa đem về triều cho vua quan dùng may trang phục, trang trí. Giới sành ăn mặc ở thành thị và giới thượng lưu giàu có ưa chuộng lụa Vạn Phúc, đặc biệt là gấm Vạn Phúc.
Theo Ronanl trong quyển Hà Đông dư địa chí (1925) ở Vạn Phúc năm 1870 có 700 người làm nghề dệt lụa và tương ứng với khoảng 350 khung dệt. Như vậy trước 1904 nghề dệt ở Vạn Phúc tuy đã phát triển song quy mô và thị trường tiêu thụ còn hẹp. Tuy có một bộ phận quan lại, vua chúa dùng gấm lụa của Vạn Phúc song thị trường tiêu thụ chính vẫn là chợ làng (chợ Đình), chợ khu vực ( chợ Đơ). Như vậy có thể nói nghề dệt làng Vạn Phúc thời kỳ này kỹ thuật dệt còn thô sơ, quy mô nhỏ, thị trường tiêu thụ là địa phương và những vùng phụ cận là chủ yếu.
Có thể nói việc bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống trong bối cảnh hiện tại có nhiều cơ hội và thách thức trong quá trình cạnh tranh với các mặt hàng công nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với một số giải pháp nói chung nhà nước cần có nhiều chính sách hỗ trợ, thúc đẩy làng nghề bằng việc ưu tiên cho vay vốn, ưu đãi về thuế…. Mặt bằng sản xuất cũng đang là một khó khăn mà các làng nghề truyền thống muốn mở rộng quy mô sản xuất đang gặp phải. Vì vậy, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách giao đất, hợp đồng cho thuê đất ổn định để các cơ sở sản xuất ở làng nghề truyền thống có thể mở rộng quy mô yên tâm sản xuất. Cần tạo điều kiện cho các làng nghề truyền thống tiếp cận được các thông tin về công nghệ, khoa học - kỹ thuật, thị trường; hỗ trợ vốn và tạo điều kiện cho các làng nghề tham gia hội chợ, triển lãm, hội thảo…để họ tự tiếp cận thông tin chủ động trong quá trình hội nhập.
Lụa Vạn Phúc ngày nay như là một biểu tượng đại diện cho tơ lụa Việt Nam được nhiều khách hàng trong và ngoài nước biết đến, có thể nói đó cũng là di sản truyền đời qua các thế hệ mà ông cha ta đã tạo dựng cho đời sau. Trong bối cảnh hiện nay khi hàng hóa tràn ngập và mang tính cạnh tranh lớn thì Vạn Phúc ngoài việc giữ gìn bản sắc văn hóa làng nghề, giữ gìn truyền thống còn cần phải gắn liền với việc gắn liền với phát triển kinh tế du lịch, hiện đại hóa để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, sản phẩm làm phải đạt chất lượng tốt hơn, đồng đều hơn, mẫu mã đa dạng đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu của khách hàng trong và ngoài nước.
TS Mai Thúc Hiệp
Tin liên quan
Tin mới hơn
Đắk Lắk: Gốm đen cổ Yang Tao khắc khoải hồi sinh
19:59 | 21/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Làng nghề Mây tre đan trăm tuổi ở Hoằng Thịnh
19:59 | 21/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Về Trù Sơn, nghe chuyện làng nồi
11:14 | 14/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Có 331 làng nghề, truyền thống được công nhận
11:13 | 14/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Bắc Ninh: Làng nghề mộc Bình Cầu hồi sinh
11:13 | 14/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Bát Tràng đưa thương hiệu gốm Việt ngày càng vươn xa
11:13 | 14/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Tin khác
Hội chợ Làng nghề Việt Nam 2024: Hội tụ hàng nghìn sản phẩm đặc sắc
11:13 | 14/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Đà Nẵng: Nghề làm bánh tráng Tuý Loan là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia.
11:12 | 14/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Luồng sinh khí mới cho các làng nghề ở Hải Dương
14:34 | 11/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Khai mạc Hội chợ quốc tế Quà tặng hàng thủ công mỹ nghệ Hà Nội 2024
14:16 | 11/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Lễ trao giải cuộc thi thiết kế mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ năm 2024
14:12 | 11/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Tháo gỡ khó khăn cho làng nghề
13:49 | 11/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Hoạ sĩ trẻ đam mê nghệ thuật sơn mài truyền thống
13:48 | 11/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Làng nghề truyền thống Minh Khai có nhiều sản phẩm OCOP
13:43 | 11/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Đẩy mạnh hoạt động marketing để xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ làng nghề Việt Nam
11:07 | 10/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Phú Yên: Đưa thổ cẩm Xí Thoại trở thành sản phẩm du lịch
10:01 | 09/10/2024 Văn hóa - Xã hội
Chi cục PTNT tỉnh Thái Nguyên tham dự Hội chợ Làng nghề Việt Nam 2024
14:14 | 07/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Hưng Yên: Làng nghề cây cảnh ảnh hưởng nặng sau mưa lũ
09:17 | 07/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Hồi sinh nghề gốm cổ tại buôn Dơng Bắk
09:16 | 07/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Bắc Ninh: 12 cơ sở ở làng nghề giấy Phong Khê dừng hoạt động
09:24 | 04/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Hội An đón nhận “Nghề làm nhà tre, dừa ở Cẩm Thanh” danh hiệu Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia
09:24 | 04/10/2024 Làng nghề, nghệ nhân
Phát triển du lịch sinh thái với tiềm năng từ nghề sản xuất chè
09:35 Du lịch làng nghề
Khuyến nông Hà Nội tích cực tham gia khôi phục sản xuất sau bão lũ
09:34 Khuyến nông
Tân Chủ tịch nước Lương Cường: Nỗ lực hết sức mình, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ Đảng, Nhà nước, Nhân dân tin tưởng giao phó
10:40 Tin tức
TRỰC TIẾP: Quốc hội khóa XV khai mạc kỳ họp thứ 8, tiến hành bầu Chủ tịch nước
20:00 Tin tức
Đắk Lắk: Gốm đen cổ Yang Tao khắc khoải hồi sinh
19:59 Làng nghề, nghệ nhân