Hà Nội: 36°C Hà Nội
Đà Nẵng: 32°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 32°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 34°C Thừa Thiên Huế

Giữ gìn bản sắc văn hóa làng nghề cần phải gắn liền với phát triển kinh tế du lịch

LNV - Làng nghề truyền thống Vạn Phúc nổi tiếng với nghề dệt lụa không chỉ ở Hà Đông mà còn trong và ngoài nước. Nghề dệt đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế văn hóa xã hội làng Vạn Phúc.


Lụa Vạn Phúc – Biểu tượng văn hóa của đất Hà Đông


Cũng giống như các làng nghề dệt khác ở vùng châu thổ sông Hồng, xuất phát từ nhu cầu tự cung tự cấp, tận dụng thời gian nhàn rỗi, những người nông dân tài hoa đã phát triển nghề thủ công truyền thống ngày một cao hơn. Nhờ có vị trí địa lý thuận lợi, hoàn cảnh lịch sử và tính cách con người mang lại cho nơi đây sự tôn vinh cao quý.

Làng Vạn Phúc có vị trí địa lý rất đẹp, là một hình thoi trải dài giữa hai đường giao thông, đường thủy và đường bộ. Phía Đông giáp sông Nhuệ, phía Tây giáp đường quốc lộ 70, cung đường Quốc lộ 70 bao quanh phía Tây Hà Nội, nơi tập trung rất nhiều làng nghề thủ công lâu đời quanh đất kinh kỳ lịch sử. Phía nam tiếp giáp Ngọc Trục, Đại Mỗ.


Hà Đông là vùng đất cổ xưa của Đồng bằng Bắc Bộ, nằm tiếp giáp với Hà Nội và có nền kinh tế hàng hóa sớm phát triển. Nơi đây cũng là mảnh đất trăm nghề nổi tiếng với nhiều nghề thủ công truyền thống như: Làm nón, đúc lưỡi cày, lười bừa, làm mộc, pháo, tiện gỗ, khảm chai...đặc biệt nổi tiếng với nghề diệt lụa và thêu ren: Làng Vạn Phúc ngày nay là phường Vạn Phúc nằm trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội khi xưa có tên gọi là Vạn Bảo thuộc tổng Thiên Mỗ bao gồm 7 xã thôn: Thiên Mỗ, Tây Mỗ, Vạn Bảo, Mỗ Lao, Ngọc Trục, Hồng Đô, Phùng Quang thuộc huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Sang thời Nguyễn, xã Thượng Thanh Oai có bốn thôn là Cầu Đơ, Kiều Trì, Văn Quán, Vạn Bảo, riêng làng Vạn Bảo nằm ở bên kia sông Cầu Am nên khi chia lại địa giới hành chính đổi sang thuộc tổng Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Đến đầu thế kỷ XX, do kiêng húy tên vua Thành Thái (1889-1906) là Bảo Lân nên mới đổi thành Vạn Phúc. Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công làng Vạn Phúc là đơn vị hành chính thuộc thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây.

Các cụ cao tuổi làng Vạn Phúc kể lại, từ xưa, người Mỗ Lao ở bên kia sông Nhuệ đã chuyển sang bên này sông lập trại sinh sống. Khi mới định cư, người Vạn Phúc chỉ sống bằng nghề trồng cây lương thực và chăn nuôi. Hoàn cảnh kinh tế tự cấp, tự túc đã đưa người dân làng Vạn Phúc đến với nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa. Trong quá trình phát triển, bên cạnh nghề nông, nghề dệt dần dần trở thành nguồn sống chính của làng.



Tư liệu tại Viện nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được 11 đạo sắc phong. Trong điều kiện tư liệu còn ít ỏi về sự phát triển của làng Vạn Phúc trong thời kỳ phong kiến thì 11 đạo sắc phong này cũng đưa lại cho chúng ta một số nét về sự phát triển của làng. Đạo sắc phong năm Bảo Hưng thứ nhất (1801) đời Tây Sơn thấy ghi duệ hiệu Đức thánh có đến hơn hai mươi mỹ tự mà theo quy định xưa thì mỗi đợt gia phong thường chỉ là hai đến ba mỹ tự. Đến triều Nguyễn, mặc dù đã có tiền lệ ban cấp sắc phong từ đời Lê, Tây Sơn nhưng các vua đầu triều Nguyễn như Gia Long (1802-1820), Minh Mạng (1821-1840), Thiệu Trị (1841-1847) đều không ban sắc phong cho thành hoàng làng Vạn Phúc. Mãi đến năm Tự Đức thứ 6 (1853) đình làng Vạn Phúc mới tiếp tục nhận được sắc phong. Theo quy chế ban cấp sắc phong thời xưa, một địa phương không được cấp sắc chỉ có hai lý do. Một là vị thần mà dân làng tôn thờ không phải là chính thần mà thuộc loại tà thần, dâm thần không được phép thờ. Hai là dân làng không chịu tuân theo giáo hóa của triều đình. Theo các cụ cao tuổi làng Vạn Phúc thì nghiêng về lí do thứ hai. Thời Tây Sơn, dân làng Vạn Phúc dốc sức ủng hội phong trào. Nghĩa cử ủng hộ phong trào Tây Sơn ấy đã gây mối phản cảm đối với các vua đầu triều Nguyễn vì thế nên không có sắc phong.

Theo sử sách, từ trước công nguyên người Lạc Việt đã biết trồng dâu, nuôi tằm. Đến các thế kỷ đầu sau công nguyên, người Việt đã có giống tằm một năm tám lứa kén. Thời kỳ nhà Đường đô hộ đã thu thuế nhân dân ta bằng tơ lụa và nghề dệt tơ lụa đã trở thành một nghề thủ công quan trọng và phổ biến. Khi đánh thuế, chính quyền đô hộ cũng nhằm vào sản phẩm tơ lụa để vơ vét. Nhất là, nhà Đường còn quy định mỗi châu nộp thuế phải tương đương giá trị 50 tấn lụa. Như vậy, lúc này tơ lụa không chỉ là sản phẩm phổ biến, gần gũi với đời sống nhân dân, mà còn được chọn làm vật ngang giá chung trong lĩnh vực thu thuế.

Từ khi mới đến lập cư, người dân Vạn Phúc mới chỉ sống bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, dân số của Vạn Phúc ngày càng đông đúc, trong khi ruộng đất sản xuất nông nghiệp ít, năng suất lúa thấp không đảm bảo cho đời sống của nhân dân. Từ đó, thôi thức cư dân trong làng tìm kiếm thêm nghề phụ để đảm bảo nhu cầu cho cuộc sống. Ngoài ra, Vạn Phúc có vị trí thuận lợi, gần nguồn tơ tằm sông Đáy, gần trung tâm kinh tế chính trị sầm uất của tỉnh Hà Đông, lại có giao thông thủy, bộ thuận tiện nên đã sớm tiếp nhận nghề dệt lụa. Nhờ bàn tay tài hoa khéo léo, ý chí quyết tâm, tài năng sáng tạo, người dân Vạn Phúc làm nên sản phẩm dệt lụa nổi tiếng trong nước và ngoài nước


Nghề dệt ở làng Vạn Phúc có từ rất lâu đời, hiện nay không còn tài liệu nào nói đến sự ra đời của nghề dệt ở Vạn Phúc. Trong dân gian chỉ còn lưu truyền những truyền thuyết phản ánh vấn đề này. Dân làng có câu vè:

Gặp cô quê ở La Khê

Nhân vui nói chuyện về nghề làm the

Nghề này khởi tận triều Lê

Tướng quân mười vị dạy nghề mới sang.

Căn cứ vào câu vè trên, một số người cho rằng nghề dệt do vị tướng quân người Tứ Xuyên, Trung Quốc sang dạy cho làng La Khê rồi sau đó mới truyền sang làng Vạn Phúc. Còn thời gian truyền nghề, câu vè chỉ nói “khởi tận triều Lê”, còn thời Lê hay Lê Sơ thì không nói rõ.

Một truyền thuyết khác được lưu truyền rộng rãi trong dân làng Vạn Phúc được nhiều người chấp nhận hơn là truyền thuyết về bà tổ nghề Lã Thị Nga. Hiện nay, người dân trong làng vẫn còn lưu giữ bản thần tích do lễ Bộ Thượng thư Đông Các Đại học Nguyễn Bính biên soạn năm 1739 có nói về bà Lã Thị Nga truyền nghề cho dân nhân.

Có thể tóm tắt truyền thuyết của bà như sau: Thời con gái bà nổi tiếng xinh đẹp và là cô thợ may khéo ở đất Kinh Kỳ. Khi Cao Biền nhà Đường (Trung Quốc) được cử sang nước ta làm tiết độ sứ, xây thành Đại La (Hà Nội ngày nay) đã lấy bà làm vợ để trông nom khu vực phường cửi trong thành. Sau khi Cao Biền về nước, bà rời đến làng Vạn Phúc ở. Bà Lã Thị Nga còn mời thêm một bà cụ giỏi nghề dệt lụa về dạy cho dân làng. Sau khi bà hóa, dân làng nhớ ơn xây miếu thờ tại chỗ hóa và tôn bà làm Thành Hoàng làng. Tại đình làng Vạn Phúc nơi thờ bà, trong hậu cung còn đặt một cái kéo, một cái vạch và một cái thước sơn son thiếp vàng đặt trước bài vị. Sau khi bà Lã Thị Nga hóa, bà cụ thợ già cũng trở về quê và mất tại quê. Dân làng nhớ ơn lập đền thờ bà gọi là Đền Phường Cửi.


Hiện nay, trong đình làng, nơi thờ bà còn lưu giữ được 11 đạo sắc phong tuy không nói rõ quá trình bà dạy nghề cho dân trong làng diễn ra như thế nào, nhưng đều ca ngợi công đức, phẩm hạnh của bà và tôn bà là Thành Hoàng của làng “Lã Thị Nương nương Nga Hoàng Đại Vương”. Đây là một cơ sở quan trọng để chúng ta xác định rõ hơn về vị tổ nghề dệt làng Vạn Phúc và sự ra đời của nghề dệt. Ngoài ra, ở đình làng còn có đôi câu đối nói về hành trang của Bà, dịch nghĩa như sau: Theo lòng trời thần ban đất, gia ân cho dân, một ấp sống chung duy phép thần mới bảo vệ được. Đức lớn như lòng đất, trừ tai cản họa cho tứ dân mới an cư lạc nghiệp chỉ có lòng người mẹ mới giúp được dân như vậy. Theo tài liệu của Dương Bá Phượng trong tác phẩm Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, cho rằng: Làng Vạn Phúc (Hà Tây) nổi tiếng về nghề dệt lụa có từ cách đây khoảng 1000 năm (từ thời nhà Lý chuyển kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long) được hình thành cùng với vùng tơ tằm Hà Đông.

Đến thế kỷ XII, XIII, khi Nho giáo bắt đầu phát triển ở Đại Việt thì sự thay đổi về trang phục như: Quốc phục, áo dài chuyển sang màu đen làm cho nhu cầu về tơ lụa lại càng lớn, tác động đến sự phát triển của nghề dệt lụa Vạn Phúc. Nhất là thời nhà Trần, mức sản xuất tơ lụa của Vạn Phúc nói riêng, cả nước nói chung đã rất phát triển, phong phú về các loại sản phẩm. Việc tiêu dùng tơ lụa rất phổ biến, phần lớn nhân dân đều mặc quần, áo đen may bằng lụa, hoặc dệt bằng tơ.

Đến thời Hậu Lê, người dân Vạn Phúc đã phát triển nghề dệt từ vải đến trồi đũi lụa, sang the, lương, vân, sa và đặc biệt là dệt gấm. Theo tài liệu của Ban quản lý tôn tạo di tích phường Vạn Phúc: Vào năm 1614 ở Trung Quốc nhà Minh suy yếu, bị nhà Thanh chiếm ngôi, có ba gia đình họ Lý làm quan ở Vân Nam, không chịu hàng phục nhà Thanh, chốn sang Đại Việt cư trú, ở Đông Đô, tức là Hà Nội ngày nay. Riêng vợ chồng ông thứ ba, vợ là Hoàng Từ Phụ, chồng là Lý Khắc Quý, mở ra dệt the. Như vậy, dệt the lương có go võng có từ thời hậu Lê.

Nghề dệt ở làng Vạn Phúc đã ra đời từ rất sớm, có thể từ thế kỷ VIII vào lúc nhà Đường đô hộ nước ta. Trong sử cũ còn chép lại lúc bấy giờ nước ta gọi là “An Nam đô hộ phủ”, dân ta phải cống nộp cho vương triều phương Bắc những cống phẩm quý giá như: tơ lụa, the, đồ mây… Nhưng nếu muộn hơn thì nghề dệt ở đây cũng đã có từ thời Lê sơ (thế kỷ XV) và bề dày thời gian là khoảng hơn 500 năm cách ngày nay.

Dệt làng Vạn Phúc đã nhanh chóng được các vua quan và các tầng lớp nhân dân ưa chuộng. Các vua triều Nguyễn từ Gia Long đến Bảo Đại đều sai người về làng Vạn Phúc mua sa, gấm, lụa đem về triều cho vua quan dùng may trang phục, trang trí. Giới sành ăn mặc ở thành thị và giới thượng lưu giàu có ưa chuộng lụa Vạn Phúc, đặc biệt là gấm Vạn Phúc.
Theo Ronanl trong quyển Hà Đông dư địa chí (1925) ở Vạn Phúc năm 1870 có 700 người làm nghề dệt lụa và tương ứng với khoảng 350 khung dệt. Như vậy trước 1904 nghề dệt ở Vạn Phúc tuy đã phát triển song quy mô và thị trường tiêu thụ còn hẹp. Tuy có một bộ phận quan lại, vua chúa dùng gấm lụa của Vạn Phúc song thị trường tiêu thụ chính vẫn là chợ làng (chợ Đình), chợ khu vực ( chợ Đơ). Như vậy có thể nói nghề dệt làng Vạn Phúc thời kỳ này kỹ thuật dệt còn thô sơ, quy mô nhỏ, thị trường tiêu thụ là địa phương và những vùng phụ cận là chủ yếu.

Có thể nói việc bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống trong bối cảnh hiện tại có nhiều cơ hội và thách thức trong quá trình cạnh tranh với các mặt hàng công nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với một số giải pháp nói chung nhà nước cần có nhiều chính sách hỗ trợ, thúc đẩy làng nghề bằng việc ưu tiên cho vay vốn, ưu đãi về thuế…. Mặt bằng sản xuất cũng đang là một khó khăn mà các làng nghề truyền thống muốn mở rộng quy mô sản xuất đang gặp phải. Vì vậy, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách giao đất, hợp đồng cho thuê đất ổn định để các cơ sở sản xuất ở làng nghề truyền thống có thể mở rộng quy mô yên tâm sản xuất. Cần tạo điều kiện cho các làng nghề truyền thống tiếp cận được các thông tin về công nghệ, khoa học - kỹ thuật, thị trường; hỗ trợ vốn và tạo điều kiện cho các làng nghề tham gia hội chợ, triển lãm, hội thảo…để họ tự tiếp cận thông tin chủ động trong quá trình hội nhập.

Lụa Vạn Phúc ngày nay như là một biểu tượng đại diện cho tơ lụa Việt Nam được nhiều khách hàng trong và ngoài nước biết đến, có thể nói đó cũng là di sản truyền đời qua các thế hệ mà ông cha ta đã tạo dựng cho đời sau. Trong bối cảnh hiện nay khi hàng hóa tràn ngập và mang tính cạnh tranh lớn thì Vạn Phúc ngoài việc giữ gìn bản sắc văn hóa làng nghề, giữ gìn truyền thống còn cần phải gắn liền với việc gắn liền với phát triển kinh tế du lịch, hiện đại hóa để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, sản phẩm làm phải đạt chất lượng tốt hơn, đồng đều hơn, mẫu mã đa dạng đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu của khách hàng trong và ngoài nước.

TS Mai Thúc Hiệp

Tin liên quan

Tin mới hơn

Giữ hồn quê qua từng mối đan

Giữ hồn quê qua từng mối đan

LNV - Giữa vùng núi rừng xã Tân Lĩnh, tỉnh Lào Cai (xã Phan Rang, Lục Yên , Yên Bái cũ), thôn Rầu Chang vẫn rộn ràng tiếng chẻ tre, vót nan – âm thanh thân quen của nghề đan rọ tôm. Nghề thủ công tưởng chừng chỉ gắn với miền sông nước nay đã bén rễ, lớn lên từ chính bàn tay cần mẫn của người vùng cao. Trải qua bao đổi thay, nghề không chỉ là kế sinh nhai mà còn là niềm tự hào, là nhịp sống không thể thiếu của người dân nơi đây.
Cổng làng trong lòng phố

Cổng làng trong lòng phố

LNV - Giữa nhịp sống hối hả của Hà Nội hôm nay, nơi những dòng xe cuồn cuộn lao đi như chẳng kịp níu giữ thời gian, đôi khi ta bắt gặp một khoảnh khắc chùng lại: một cổng làng cũ kỹ, rêu phong, âm thầm nép mình bên góc phố. Cổng làng - như dấu lặng giữa bản nhạ
Giữ hồn văn hóa làng nghề thêu thổ cẩm Lan Rừng

Giữ hồn văn hóa làng nghề thêu thổ cẩm Lan Rừng

LNV - Các sản phẩm của làng nghề thêu thổ cẩm Lan Rừng (Lào Cai) mang nét riêng khó trộn lẫn: Họa tiết tinh xảo, màu sắc rực rỡ, vừa truyền thống vừa hiện đại, là món quà lưu niệm hấp dẫn du khách.
Thắp lại lửa nghề làng gốm trăm năm tuổi ở miền sông nước

Thắp lại lửa nghề làng gốm trăm năm tuổi ở miền sông nước

LNV - Được thiên nhiên ưu đãi chất đất đỏ độc đáo, Vĩnh Long từ lâu đã nổi tiếng là thủ phủ gốm của miền Tây Nam bộ. Giữa biến động thời cuộc và sự mai một của làng nghề truyền thống, nơi đây hiện đang thắp lại ngọn lửa nghề bằng sự kết hợp giữa di sản và đổi mới, với vai trò tiên phong của những người nghệ nhân giàu tâm huyết.
Thuỷ Xuân - Thơm mãi một làng nghề

Thuỷ Xuân - Thơm mãi một làng nghề

LNV - Nằm cách TP. Huế khoảng 7km về hướng Tây Nam, làng hương Thủy Xuân (TP Huế) ẩn mình dưới chân đồi Vọng Cảnh, bên dòng sông Hương thơ mộng. Nơi đây, từ lâu đã nổi tiếng với nghề làm hương trầm thơm trên đất thần kinh của người dân đã nức tiếng xa gần. Trong những năm trở lại đây, làng hương này còn trở thành địa điểm tham quan đặc sắc của du khách trong và ngoài nước.
Làn gió mới cho vùng chè Thái Nguyên

Làn gió mới cho vùng chè Thái Nguyên

LNV - Với định hướng và mong muốn phát triển dài hạn tại Việt Nam, thương hiệu trà sữa CHAGEE xem việc đồng hành giúp bà con nông dân xây dựng mô hình vùng nguyên liệu thí điểm là hành động cần thiết để góp phần thúc đẩy nông nghiệp bền vững, minh bạch và gắn kết với cộng đồng địa phương.

Tin khác

Chuẩn bị cho Festival Quốc tế 2025: Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

Chuẩn bị cho Festival Quốc tế 2025: Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

LNV - Sáng 3/7, UBND thành phố Hà Nội tổ chức Hội nghị về việc tổ chức Festival Bảo tồn và Phát triển làng nghề quốc tế năm 2025. Đồng chí Nguyễn Mạnh Quyền, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội và đồng chí Võ Văn Hưng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì hội nghị.
"Gieo mầm số" cho đất nghề Phú Xuyên

"Gieo mầm số" cho đất nghề Phú Xuyên

LNV - Nếu phải xác định một điểm khởi đầu cho hành trình chuyển đổi số tại huyện Phú Xuyên, thì đó không phải là hạ tầng, công nghệ hay những con số đầu tư hàng chục tỷ đồng, mà chính là yếu tố con người - những người dám nghĩ, dám làm, dám tiên phong.
Gìn giữ và phát huy nghề truyền thống của đồng bào Hrê ở huyện Ba Tơ

Gìn giữ và phát huy nghề truyền thống của đồng bào Hrê ở huyện Ba Tơ

LNV - Giữa dòng chảy hiện đại hóa, những nghề truyền thống như dệt thổ cẩm và đan lát của đồng bào Hrê ở huyện Ba Tơ (tỉnh Quảng Ngãi) vẫn được gìn giữ bền bỉ qua nhiều thế hệ. Không chỉ mang giá trị thẩm mỹ cao, các sản phẩm thủ công còn là biểu tượng văn hóa độc đáo, gắn liền với đời sống núi rừng và tâm hồn người Hrê. Nhờ đôi bàn tay khéo léo của những nghệ nhân, những nghề xưa không chỉ sống lại mà còn trở thành điểm nhấn trong phát triển du lịch cộng đồng địa phương.
Mùa sen ở hồ Tây

Mùa sen ở hồ Tây

LNV - Vào dịp tháng 6 này, trên khắp các ao, đầm trồng sen ở khu vực hồ Tây (quận Tây Hồ) rộn ràng không khí thu hoạch, chụp ảnh với hoa. Sen trồng ở đây là sen bách diệp với bông to có 100 cánh, mùi thơm đượm mang một nét đặc trưng riêng của hồ Tây mà không nơi nào có được.
Nghề Đúc Đồng Đại Bái: Tinh Hoa Văn Hóa Bắc Ninh

Nghề Đúc Đồng Đại Bái: Tinh Hoa Văn Hóa Bắc Ninh

LNV - Bắc Ninh là một tỉnh nổi tiếng với nhiều làng nghề truyền thống, trong đó phải kể đến làng nghề đúc đồng Đại Bái, trước đây gọi là làng Văn Lãng (hay còn gọi là làng Bưởi Nồi), thuộc xã Đại Bái, huyện Gia Bình. Từ lâu, làng đã nổi danh với nghề đúc đồng, chuyên sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh xảo.
Đưa sản phẩm làng nghề lên sách, tăng cơ hội xuất khẩu

Đưa sản phẩm làng nghề lên sách, tăng cơ hội xuất khẩu

LNV - Việc đưa các sản phẩm làng nghề lồng ghép trong các cuốn sách là cách thức hiệu quả để quảng bá thương hiệu, tăng cơ hội xuất khẩu.
Bảo tồn văn hóa làng nghề qua sản phẩm OCOP của Hà Nội

Bảo tồn văn hóa làng nghề qua sản phẩm OCOP của Hà Nội

LNV - Hà Nội là mảnh đất hội tụ tinh hoa văn hóa dân tộc, nơi lưu giữ hơn 1.350 làng nghề và làng có nghề truyền thống. Trong bối cảnh hội nhập và phát triển, việc bảo tồn và phát huy giá trị làng nghề đang đứng trước nhiều thách thức. Chương trình 'Mỗi xã một sản phẩm' (OCOP) được xác định là một trong những giải pháp chiến lược giúp Hà Nội bảo tồn văn hóa làng nghề một cách hiệu quả và bền vững.
Gia Lâm: Địa danh “Dương Xá” được bảo hộ nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm nông sản chế biến

Gia Lâm: Địa danh “Dương Xá” được bảo hộ nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm nông sản chế biến

LNV - Theo UBND huyện Gia Lâm, UBND thành phố Hà Nội vừa ban hành Quyết định số 2738/QĐ-UBND, cho phép Hợp tác xã Dịch vụ tổng hợp xã Dương Xá sử dụng địa danh “Dương Xá” để đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tập thể “Nông sản chế biến Dương Xá”.
Gìn giữ tinh hoa làng nghề xứ Quảng

Gìn giữ tinh hoa làng nghề xứ Quảng

LNV - Trong số sáu cá nhân vừa được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân Nhân dân” vì những cống hiến đặc biệt trong gìn giữ và phát huy di sản nghề thủ công mỹ nghệ, tỉnh Quảng Nam vinh dự có hai đại diện: Ông Lê Đức Hạ (nghệ nhân gốm ở TX Điện Bàn) và ông Huỳnh Sướng (nghệ nhân mộc tại TP Hội An).
Chuyện của “Vua gỗ lũa Trai Vàng”

Chuyện của “Vua gỗ lũa Trai Vàng”

LNV - ’’Nơi tôi sinh: Làng Phùng Xá- Huyện Thạch Thất gần Chùa Thầy- một làng quê nghèo nhưng dân quê tôi thật thà lắm… “ Một câu nói cũng rất thật thà chân chất đến từ người đàn ông có ánh mắt kiên định, khuôn mặt sáng có chút lãng tử như một hoạ sĩ. Đó là anh Chu Văn Ân, nghệ nhân gỗ lũa Trai Vàng.
Nghệ nhân sinh vật cảnh năng động, sáng tạo

Nghệ nhân sinh vật cảnh năng động, sáng tạo

LNV - Nói đến "Bắc lan" hay "Bắc hồ câu", "Bất động sản Phương Bắc" ở Suối Hai thì người dân huyện Ba Vì (Hà Nội) và các địa phương lân cận ai cũng biết đó là tên thường gọi của doanh nhân Lê Đức Bắc. Anh Bắc không những thành đạt trong lĩnh vực vận tải, xây dựng, kinh doanh bất động sản mà còn là một nghệ nhân sinh vật cảnh và làm vườn (SVC & LV).
Làng nghề xứ Thanh – Nơi kết tinh tinh hoa văn hóa cha ông

Làng nghề xứ Thanh – Nơi kết tinh tinh hoa văn hóa cha ông

LNV - Xứ Thanh nổi tiếng là vùng đất của những làng nghề truyền thống lâu đời, nơi lưu giữ trọn vẹn giá trị văn hóa, tinh thần và bàn tay tài hoa của bao thế hệ. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, mỗi làng nghề không chỉ là kế sinh nhai của người dân mà còn là “bảo tàng sống” của tinh hoa văn hóa đất Việt, ngày càng được phát huy mạnh mẽ trong đời sống hiện đại.
Giữ lửa nghề bánh tráng Thuận Hưng

Giữ lửa nghề bánh tráng Thuận Hưng

LNV - Nằm ven dòng sông Hậu hiền hòa, làng nghề bánh tráng Thuận Hưng (xã Thuận Hưng, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ) là một trong những làng nghề truyền thống lâu đời, nổi tiếng miền Tây Nam Bộ. Ngày nay, những người dân nơi đây vẫn miệt mài đỏ lửa, tráng bánh nhằm gìn giữ và phát triển làng nghề địa phương.
Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt

Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt

LNV - Với đường bờ biển dài, điều kiện tự nhiên thuận lợi và nguồn lợi thủy sản phong phú, Việt Nam sở hữu lợi thế lớn về nghề nuôi biển. Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm tháo gỡ những nút thắt, phát huy tối đa tiềm năng, hướng tới mục tiêu phát triển nghề nuôi biển hiện đại, bền vững.
Làng nghề dệt lanh Lùng Tám – Nét văn hóa Mông trên Cao nguyên đá

Làng nghề dệt lanh Lùng Tám – Nét văn hóa Mông trên Cao nguyên đá

LNV - Lên Cao nguyên đá, nhiều du khách sẽ tìm đến với Làng nghề dệt vải lanh Lùng Tám, xã Lùng Tám, huyện Quản Bạ. Nơi đây nổi tiếng với việc gìn giữ, phát huy hiệu quả nghề truyền thống của Hợp tác xã lanh Lùng Tám, với 100% thành viên là phụ nữ người Mông. Sự cần cù, sáng tạo từ những sợi lanh đã cho ra đời nhiều sản phẩm thủ công rất đẹp, mang đậm bản sắc truyền thống. Chính điều này đã giúp cho Làng nghề dệt vải lanh Lùng Tám trở thành một điểm du lịch trải nghiệm cực kỳ hấp dẫn và thu hút rất đông du khách.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Giữ hồn quê qua từng mối đan

Giữ hồn quê qua từng mối đan

LNV - Giữa vùng núi rừng xã Tân Lĩnh, tỉnh Lào Cai (xã Phan Rang, Lục Yên , Yên Bái cũ), thôn Rầu Chang vẫn rộn ràng tiếng chẻ tre, vót nan – âm thanh thân quen của nghề đan rọ tôm. Nghề thủ công tưởng chừng chỉ gắn với miền sông nước nay đã bén rễ, lớn lên từ chính bàn tay cần mẫn của người vùng cao. Trải qua bao đổi thay, nghề không chỉ là kế sinh nhai mà còn là niềm tự hào, là nhịp sống không thể thiếu của người dân nơi đây.
Đoài Phương hướng tới phát triển bền vững từ nông nghiệp, công nghiệp đến du lịch sinh thái

Đoài Phương hướng tới phát triển bền vững từ nông nghiệp, công nghiệp đến du lịch sinh thái

LNV - Sau khi được thành lập từ sự hợp nhất của ba xã cũ thuộc thị xã Sơn Tây, xã Đoài Phương (Hà Nội) đang từng bước vươn lên trở thành địa phương phát triển toàn diện. Với định hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp và du lịch sinh thái, Đoài Phương đặt mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và xây dựng nền kinh tế bền vững.
Việt Nam sắp đón 14 Bộ trưởng châu Phi đến tìm hiểu chương trình OCOP

Việt Nam sắp đón 14 Bộ trưởng châu Phi đến tìm hiểu chương trình OCOP

LNV - Ngày 15/7 tới đây, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ phối hợp cùng FAO tổ chức Diễn đàn trao đổi kinh nghiệm cấp cao giữa các khu vực về mô hình OCOP.
Xây dựng các chi hội nông dân gắn với thế mạnh từng địa phương

Xây dựng các chi hội nông dân gắn với thế mạnh từng địa phương

LNV - Thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/HNDTƯ ngày 27-7-2020 của Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam về phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn, Hội Nông dân thành phố Hà Nội từng bước khẳng định vai trò lực lượng nòng cốt trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nổi bật là hội xây dựng các mô hình chi hội, tổ hội nghề nghiệp đặc thù theo thế mạnh từng địa phương.
Bún bò Huế được công nhận Di sản quốc gia

Bún bò Huế được công nhận Di sản quốc gia

LNV - Từ chiều sâu lịch sử của miền Cố đô mộng mơ, Bún bò Huế vươn mình trở thành một tác phẩm văn hóa sống, nơi tinh hoa ẩm thực và trí tuệ dân gian hội tụ, được Nhà nước trao tặng chứng nhận "Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia" theo Quyết định số 2203/QĐ–BVHTTDL, ký ngày 27/6/2025
Giao diện di động