Hà Nội: 26°C Hà Nội
Đà Nẵng: 29°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 31°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 28°C Thừa Thiên Huế

Giữ gìn bản sắc văn hóa làng nghề cần phải gắn liền với phát triển kinh tế du lịch

LNV - Làng nghề truyền thống Vạn Phúc nổi tiếng với nghề dệt lụa không chỉ ở Hà Đông mà còn trong và ngoài nước. Nghề dệt đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế văn hóa xã hội làng Vạn Phúc.


Lụa Vạn Phúc – Biểu tượng văn hóa của đất Hà Đông


Cũng giống như các làng nghề dệt khác ở vùng châu thổ sông Hồng, xuất phát từ nhu cầu tự cung tự cấp, tận dụng thời gian nhàn rỗi, những người nông dân tài hoa đã phát triển nghề thủ công truyền thống ngày một cao hơn. Nhờ có vị trí địa lý thuận lợi, hoàn cảnh lịch sử và tính cách con người mang lại cho nơi đây sự tôn vinh cao quý.

Làng Vạn Phúc có vị trí địa lý rất đẹp, là một hình thoi trải dài giữa hai đường giao thông, đường thủy và đường bộ. Phía Đông giáp sông Nhuệ, phía Tây giáp đường quốc lộ 70, cung đường Quốc lộ 70 bao quanh phía Tây Hà Nội, nơi tập trung rất nhiều làng nghề thủ công lâu đời quanh đất kinh kỳ lịch sử. Phía nam tiếp giáp Ngọc Trục, Đại Mỗ.


Hà Đông là vùng đất cổ xưa của Đồng bằng Bắc Bộ, nằm tiếp giáp với Hà Nội và có nền kinh tế hàng hóa sớm phát triển. Nơi đây cũng là mảnh đất trăm nghề nổi tiếng với nhiều nghề thủ công truyền thống như: Làm nón, đúc lưỡi cày, lười bừa, làm mộc, pháo, tiện gỗ, khảm chai...đặc biệt nổi tiếng với nghề diệt lụa và thêu ren: Làng Vạn Phúc ngày nay là phường Vạn Phúc nằm trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội khi xưa có tên gọi là Vạn Bảo thuộc tổng Thiên Mỗ bao gồm 7 xã thôn: Thiên Mỗ, Tây Mỗ, Vạn Bảo, Mỗ Lao, Ngọc Trục, Hồng Đô, Phùng Quang thuộc huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Sang thời Nguyễn, xã Thượng Thanh Oai có bốn thôn là Cầu Đơ, Kiều Trì, Văn Quán, Vạn Bảo, riêng làng Vạn Bảo nằm ở bên kia sông Cầu Am nên khi chia lại địa giới hành chính đổi sang thuộc tổng Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Đến đầu thế kỷ XX, do kiêng húy tên vua Thành Thái (1889-1906) là Bảo Lân nên mới đổi thành Vạn Phúc. Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công làng Vạn Phúc là đơn vị hành chính thuộc thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây.

Các cụ cao tuổi làng Vạn Phúc kể lại, từ xưa, người Mỗ Lao ở bên kia sông Nhuệ đã chuyển sang bên này sông lập trại sinh sống. Khi mới định cư, người Vạn Phúc chỉ sống bằng nghề trồng cây lương thực và chăn nuôi. Hoàn cảnh kinh tế tự cấp, tự túc đã đưa người dân làng Vạn Phúc đến với nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa. Trong quá trình phát triển, bên cạnh nghề nông, nghề dệt dần dần trở thành nguồn sống chính của làng.



Tư liệu tại Viện nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được 11 đạo sắc phong. Trong điều kiện tư liệu còn ít ỏi về sự phát triển của làng Vạn Phúc trong thời kỳ phong kiến thì 11 đạo sắc phong này cũng đưa lại cho chúng ta một số nét về sự phát triển của làng. Đạo sắc phong năm Bảo Hưng thứ nhất (1801) đời Tây Sơn thấy ghi duệ hiệu Đức thánh có đến hơn hai mươi mỹ tự mà theo quy định xưa thì mỗi đợt gia phong thường chỉ là hai đến ba mỹ tự. Đến triều Nguyễn, mặc dù đã có tiền lệ ban cấp sắc phong từ đời Lê, Tây Sơn nhưng các vua đầu triều Nguyễn như Gia Long (1802-1820), Minh Mạng (1821-1840), Thiệu Trị (1841-1847) đều không ban sắc phong cho thành hoàng làng Vạn Phúc. Mãi đến năm Tự Đức thứ 6 (1853) đình làng Vạn Phúc mới tiếp tục nhận được sắc phong. Theo quy chế ban cấp sắc phong thời xưa, một địa phương không được cấp sắc chỉ có hai lý do. Một là vị thần mà dân làng tôn thờ không phải là chính thần mà thuộc loại tà thần, dâm thần không được phép thờ. Hai là dân làng không chịu tuân theo giáo hóa của triều đình. Theo các cụ cao tuổi làng Vạn Phúc thì nghiêng về lí do thứ hai. Thời Tây Sơn, dân làng Vạn Phúc dốc sức ủng hội phong trào. Nghĩa cử ủng hộ phong trào Tây Sơn ấy đã gây mối phản cảm đối với các vua đầu triều Nguyễn vì thế nên không có sắc phong.

Theo sử sách, từ trước công nguyên người Lạc Việt đã biết trồng dâu, nuôi tằm. Đến các thế kỷ đầu sau công nguyên, người Việt đã có giống tằm một năm tám lứa kén. Thời kỳ nhà Đường đô hộ đã thu thuế nhân dân ta bằng tơ lụa và nghề dệt tơ lụa đã trở thành một nghề thủ công quan trọng và phổ biến. Khi đánh thuế, chính quyền đô hộ cũng nhằm vào sản phẩm tơ lụa để vơ vét. Nhất là, nhà Đường còn quy định mỗi châu nộp thuế phải tương đương giá trị 50 tấn lụa. Như vậy, lúc này tơ lụa không chỉ là sản phẩm phổ biến, gần gũi với đời sống nhân dân, mà còn được chọn làm vật ngang giá chung trong lĩnh vực thu thuế.

Từ khi mới đến lập cư, người dân Vạn Phúc mới chỉ sống bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, dân số của Vạn Phúc ngày càng đông đúc, trong khi ruộng đất sản xuất nông nghiệp ít, năng suất lúa thấp không đảm bảo cho đời sống của nhân dân. Từ đó, thôi thức cư dân trong làng tìm kiếm thêm nghề phụ để đảm bảo nhu cầu cho cuộc sống. Ngoài ra, Vạn Phúc có vị trí thuận lợi, gần nguồn tơ tằm sông Đáy, gần trung tâm kinh tế chính trị sầm uất của tỉnh Hà Đông, lại có giao thông thủy, bộ thuận tiện nên đã sớm tiếp nhận nghề dệt lụa. Nhờ bàn tay tài hoa khéo léo, ý chí quyết tâm, tài năng sáng tạo, người dân Vạn Phúc làm nên sản phẩm dệt lụa nổi tiếng trong nước và ngoài nước


Nghề dệt ở làng Vạn Phúc có từ rất lâu đời, hiện nay không còn tài liệu nào nói đến sự ra đời của nghề dệt ở Vạn Phúc. Trong dân gian chỉ còn lưu truyền những truyền thuyết phản ánh vấn đề này. Dân làng có câu vè:

Gặp cô quê ở La Khê

Nhân vui nói chuyện về nghề làm the

Nghề này khởi tận triều Lê

Tướng quân mười vị dạy nghề mới sang.

Căn cứ vào câu vè trên, một số người cho rằng nghề dệt do vị tướng quân người Tứ Xuyên, Trung Quốc sang dạy cho làng La Khê rồi sau đó mới truyền sang làng Vạn Phúc. Còn thời gian truyền nghề, câu vè chỉ nói “khởi tận triều Lê”, còn thời Lê hay Lê Sơ thì không nói rõ.

Một truyền thuyết khác được lưu truyền rộng rãi trong dân làng Vạn Phúc được nhiều người chấp nhận hơn là truyền thuyết về bà tổ nghề Lã Thị Nga. Hiện nay, người dân trong làng vẫn còn lưu giữ bản thần tích do lễ Bộ Thượng thư Đông Các Đại học Nguyễn Bính biên soạn năm 1739 có nói về bà Lã Thị Nga truyền nghề cho dân nhân.

Có thể tóm tắt truyền thuyết của bà như sau: Thời con gái bà nổi tiếng xinh đẹp và là cô thợ may khéo ở đất Kinh Kỳ. Khi Cao Biền nhà Đường (Trung Quốc) được cử sang nước ta làm tiết độ sứ, xây thành Đại La (Hà Nội ngày nay) đã lấy bà làm vợ để trông nom khu vực phường cửi trong thành. Sau khi Cao Biền về nước, bà rời đến làng Vạn Phúc ở. Bà Lã Thị Nga còn mời thêm một bà cụ giỏi nghề dệt lụa về dạy cho dân làng. Sau khi bà hóa, dân làng nhớ ơn xây miếu thờ tại chỗ hóa và tôn bà làm Thành Hoàng làng. Tại đình làng Vạn Phúc nơi thờ bà, trong hậu cung còn đặt một cái kéo, một cái vạch và một cái thước sơn son thiếp vàng đặt trước bài vị. Sau khi bà Lã Thị Nga hóa, bà cụ thợ già cũng trở về quê và mất tại quê. Dân làng nhớ ơn lập đền thờ bà gọi là Đền Phường Cửi.


Hiện nay, trong đình làng, nơi thờ bà còn lưu giữ được 11 đạo sắc phong tuy không nói rõ quá trình bà dạy nghề cho dân trong làng diễn ra như thế nào, nhưng đều ca ngợi công đức, phẩm hạnh của bà và tôn bà là Thành Hoàng của làng “Lã Thị Nương nương Nga Hoàng Đại Vương”. Đây là một cơ sở quan trọng để chúng ta xác định rõ hơn về vị tổ nghề dệt làng Vạn Phúc và sự ra đời của nghề dệt. Ngoài ra, ở đình làng còn có đôi câu đối nói về hành trang của Bà, dịch nghĩa như sau: Theo lòng trời thần ban đất, gia ân cho dân, một ấp sống chung duy phép thần mới bảo vệ được. Đức lớn như lòng đất, trừ tai cản họa cho tứ dân mới an cư lạc nghiệp chỉ có lòng người mẹ mới giúp được dân như vậy. Theo tài liệu của Dương Bá Phượng trong tác phẩm Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, cho rằng: Làng Vạn Phúc (Hà Tây) nổi tiếng về nghề dệt lụa có từ cách đây khoảng 1000 năm (từ thời nhà Lý chuyển kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long) được hình thành cùng với vùng tơ tằm Hà Đông.

Đến thế kỷ XII, XIII, khi Nho giáo bắt đầu phát triển ở Đại Việt thì sự thay đổi về trang phục như: Quốc phục, áo dài chuyển sang màu đen làm cho nhu cầu về tơ lụa lại càng lớn, tác động đến sự phát triển của nghề dệt lụa Vạn Phúc. Nhất là thời nhà Trần, mức sản xuất tơ lụa của Vạn Phúc nói riêng, cả nước nói chung đã rất phát triển, phong phú về các loại sản phẩm. Việc tiêu dùng tơ lụa rất phổ biến, phần lớn nhân dân đều mặc quần, áo đen may bằng lụa, hoặc dệt bằng tơ.

Đến thời Hậu Lê, người dân Vạn Phúc đã phát triển nghề dệt từ vải đến trồi đũi lụa, sang the, lương, vân, sa và đặc biệt là dệt gấm. Theo tài liệu của Ban quản lý tôn tạo di tích phường Vạn Phúc: Vào năm 1614 ở Trung Quốc nhà Minh suy yếu, bị nhà Thanh chiếm ngôi, có ba gia đình họ Lý làm quan ở Vân Nam, không chịu hàng phục nhà Thanh, chốn sang Đại Việt cư trú, ở Đông Đô, tức là Hà Nội ngày nay. Riêng vợ chồng ông thứ ba, vợ là Hoàng Từ Phụ, chồng là Lý Khắc Quý, mở ra dệt the. Như vậy, dệt the lương có go võng có từ thời hậu Lê.

Nghề dệt ở làng Vạn Phúc đã ra đời từ rất sớm, có thể từ thế kỷ VIII vào lúc nhà Đường đô hộ nước ta. Trong sử cũ còn chép lại lúc bấy giờ nước ta gọi là “An Nam đô hộ phủ”, dân ta phải cống nộp cho vương triều phương Bắc những cống phẩm quý giá như: tơ lụa, the, đồ mây… Nhưng nếu muộn hơn thì nghề dệt ở đây cũng đã có từ thời Lê sơ (thế kỷ XV) và bề dày thời gian là khoảng hơn 500 năm cách ngày nay.

Dệt làng Vạn Phúc đã nhanh chóng được các vua quan và các tầng lớp nhân dân ưa chuộng. Các vua triều Nguyễn từ Gia Long đến Bảo Đại đều sai người về làng Vạn Phúc mua sa, gấm, lụa đem về triều cho vua quan dùng may trang phục, trang trí. Giới sành ăn mặc ở thành thị và giới thượng lưu giàu có ưa chuộng lụa Vạn Phúc, đặc biệt là gấm Vạn Phúc.
Theo Ronanl trong quyển Hà Đông dư địa chí (1925) ở Vạn Phúc năm 1870 có 700 người làm nghề dệt lụa và tương ứng với khoảng 350 khung dệt. Như vậy trước 1904 nghề dệt ở Vạn Phúc tuy đã phát triển song quy mô và thị trường tiêu thụ còn hẹp. Tuy có một bộ phận quan lại, vua chúa dùng gấm lụa của Vạn Phúc song thị trường tiêu thụ chính vẫn là chợ làng (chợ Đình), chợ khu vực ( chợ Đơ). Như vậy có thể nói nghề dệt làng Vạn Phúc thời kỳ này kỹ thuật dệt còn thô sơ, quy mô nhỏ, thị trường tiêu thụ là địa phương và những vùng phụ cận là chủ yếu.

Có thể nói việc bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống trong bối cảnh hiện tại có nhiều cơ hội và thách thức trong quá trình cạnh tranh với các mặt hàng công nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với một số giải pháp nói chung nhà nước cần có nhiều chính sách hỗ trợ, thúc đẩy làng nghề bằng việc ưu tiên cho vay vốn, ưu đãi về thuế…. Mặt bằng sản xuất cũng đang là một khó khăn mà các làng nghề truyền thống muốn mở rộng quy mô sản xuất đang gặp phải. Vì vậy, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách giao đất, hợp đồng cho thuê đất ổn định để các cơ sở sản xuất ở làng nghề truyền thống có thể mở rộng quy mô yên tâm sản xuất. Cần tạo điều kiện cho các làng nghề truyền thống tiếp cận được các thông tin về công nghệ, khoa học - kỹ thuật, thị trường; hỗ trợ vốn và tạo điều kiện cho các làng nghề tham gia hội chợ, triển lãm, hội thảo…để họ tự tiếp cận thông tin chủ động trong quá trình hội nhập.

Lụa Vạn Phúc ngày nay như là một biểu tượng đại diện cho tơ lụa Việt Nam được nhiều khách hàng trong và ngoài nước biết đến, có thể nói đó cũng là di sản truyền đời qua các thế hệ mà ông cha ta đã tạo dựng cho đời sau. Trong bối cảnh hiện nay khi hàng hóa tràn ngập và mang tính cạnh tranh lớn thì Vạn Phúc ngoài việc giữ gìn bản sắc văn hóa làng nghề, giữ gìn truyền thống còn cần phải gắn liền với việc gắn liền với phát triển kinh tế du lịch, hiện đại hóa để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, sản phẩm làm phải đạt chất lượng tốt hơn, đồng đều hơn, mẫu mã đa dạng đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu của khách hàng trong và ngoài nước.

TS Mai Thúc Hiệp

Tin liên quan

Tin mới hơn

Thanh Hóa thúc đẩy bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

Thanh Hóa thúc đẩy bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

LNV - Thanh Hóa từ lâu đã nổi tiếng với nhiều làng nghề gắn bó mật thiết với đời sống, văn hóa và lịch sử. Trước thách thức của cơ chế thị trường, các làng nghề nơi đây đang khoác lên mình sức sống mới, vừa bảo tồn bản sắc, vừa tìm đường phát triển bền vững.
Hơn 300 năm giữ lửa truyền thống ở làng nghề chiếu cói Hoài Nhơn

Hơn 300 năm giữ lửa truyền thống ở làng nghề chiếu cói Hoài Nhơn

LNV - Làng nghề chiếu cói Hoài Nhơn (phường Hoài Nhơn Bắc, tỉnh Gia Lai) có lịch sử hình thành và phát triển hơn 300 năm, gắn liền với truyền thống văn hóa của vùng đất Bình Định xưa. Từ đôi bàn tay khéo léo của bao thế hệ, những tấm chiếu cói mộc mạc đã trở thành sản phẩm đặc trưng, lan tỏa khắp các vùng miền trong cả nước, đặc biệt là Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Làng gốm Bát Tràng kết nối di sản và hội nhập quốc tế

Làng gốm Bát Tràng kết nối di sản và hội nhập quốc tế

LNV - Xã Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội) – “thủ phủ” gốm sứ của cả nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới khi mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Với lợi thế truyền thống nghề gốm hàng trăm năm, địa phương đã và đang triển khai nhiều giải pháp nhằm phát triển làng nghề gắn với du lịch, nâng cao thu nhập cho người dân và khẳng định vị thế thương hiệu gốm Bát Tràng trên bản đồ thủ công mỹ nghệ thế giới.
Nghệ nhân Nguyễn Hữu Kiêm - Người giữ hồn diều sáo làng Bá

Nghệ nhân Nguyễn Hữu Kiêm - Người giữ hồn diều sáo làng Bá

LNV - Sinh ra và lớn lên trong cái nôi văn hóa dân gian của làng Bá Dương (nay thuộc xã Ô Diên, TP. Hà Nội), nghệ nhân nhân dân Nguyễn Hữu Kiêm đã dành cả cuộc đời để gìn giữ và lan tỏa nét đẹp diều sáo truyền thống. Từ những cánh diều tuổi thơ, ông đã đưa tình yêu ấy bay cao, bay xa đến với bạn bè khắp mọi nơi.
Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

LNV - Bờ Nam sông Cổ Chiên, một nhánh chính của sông Cửu Long thuộc tỉnh Vĩnh Long, từ lâu đã nổi tiếng với những lò gốm đỏ rực lửa. Trên mảnh đất sét nhiễm phèn nặng, những người phụ nữ cần mẫn ngày đêm nhào nặn từng thớ đất vô tri thành những sản phẩm gốm độc bản, vừa nuôi sống gia đình vừa giữ gìn hồn quê qua bao thế hệ.
Gìn giữ nghề truyền thống tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn

Gìn giữ nghề truyền thống tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn

LNV - Trong nhịp sống sôi động của kinh tế thị trường, không ít làng nghề truyền thống đứng trước nguy cơ bị lãng quên. Thế nhưng, nhờ sự đồng hành của cộng đồng, chính quyền địa phương và sự sáng tạo của người dân, nhiều nghề cổ truyền không chỉ được gìn giữ mà còn trở thành bệ phóng phát triển kinh tế, góp phần xây dựng nông thôn mới bền vững.

Tin khác

Gốm Việt Nam: Nhu cầu thị trường nội địa và những cơ hội phát triển đột phá

Gốm Việt Nam: Nhu cầu thị trường nội địa và những cơ hội phát triển đột phá

LNV - Nghệ thuật gốm đã in sâu vào bản sắc văn hóa Việt Nam từ hàng nghìn năm trước, là một phần không thể thiếu trong đời sống, tín ngưỡng và thẩm mỹ của người Việt. Từ những chiếc bình gốm Phùng Nguyên, trống đồng Đông Sơn cho đến những chiếc bình gốm hoa lam tinh xảo của Chu Đậu hay bát đĩa gốm Bát Tràng quen thuộc, gốm sứ không chỉ là vật dụng mà còn là biểu tượng của sự khéo léo, óc sáng tạo và tinh thần lao động bền bỉ của người Việt Nam.
Làng hoa Vạn Thành không ngừng đổi mới và hội nhâp

Làng hoa Vạn Thành không ngừng đổi mới và hội nhâp

LNV - Làng hoa Vạn Thành được hình thành từ những năm 50 của thế kỷ XX bởi người dân từ Hà Nam di cư vào Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Nhờ điều kiện khí hậu mát mẻ và đất đai màu mỡ, Làng hoa Vạn Thành đã phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong trung tâm sản xuất hoa lớn tại Đà Lạt.
Đắk Lắk: Phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm

Đắk Lắk: Phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm

LNV - Đắk Lắk phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm, mở rộng quy mô sản xuất, hướng đến việc kết hợp phát triển du lịch cộng đồng và trải nghiệm, giúp du khách có thể khám phá quy trình làm muối truyền thống.
Nuôi ong dưới tán rừng ngập mặn

Nuôi ong dưới tán rừng ngập mặn

LNV - Gắn bó với nghề nuôi ong đã gần 10 năm, bắt đầu từ vài chục tổ ong ban đầu, đến nay anh Trần Văn Sửu đã mở rộng lên khoảng 500 tổ, mỗi năm mang lại thu nhập ổn định khoảng 200 triệu đồng – con số không nhỏ đối với một hộ dân vùng ven biển.
Trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu ở Chợ nổi Cái Răng

Trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu ở Chợ nổi Cái Răng

LNV - Nhiều du khách trong và ngoài nước thích thú trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu tại chợ nổi Cái Răng.
Phát triển kinh tế làng nghề tạo đòn bẩy xây dựng nông thôn mới

Phát triển kinh tế làng nghề tạo đòn bẩy xây dựng nông thôn mới

LNV - Thành phố Hà Nội hiện có 1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó 337 nghề truyền thống đã được công nhận. Các làng nghề đã giúp nâng cao thu nhập, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động. Việc phát triển làng nghề không chỉ giữ gìn bản sắc truyền thống, mà còn tạo đòn bẩy trong xây dựng nông thôn mới.
15 cá nhân ở xã Bát Tràng được đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội

15 cá nhân ở xã Bát Tràng được đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội

LNV - Trong 2 ngày 9 và 10-9, Đoàn thẩm định của Hội đồng thành phố Hà Nội về xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ năm 2025 đã tổ chức thẩm định thực tế tại cơ sở các cá nhân có hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội năm 2025 tại xã Bát Tràng.
Ký ức Trung thu cổ "hồi sinh" bằng nghệ thuật giấy dó

Ký ức Trung thu cổ "hồi sinh" bằng nghệ thuật giấy dó

LNV - Trung thu không chỉ là Tết của thiếu nhi, mà còn là ký ức văn hóa của nhiều thế hệ người Việt. Khi đèn lồng nhựa và ánh sáng điện tử ngày càng phổ biến, những giá trị xưa dần phai nhạt. Triển lãm “Lãm” xuất hiện như một nhịp cầu, đưa con người trở về với mùa trăng cổ tích bằng những chiếc đèn giấy dó mộc mạc, bền vững và thấm đẫm hồn Việt.
Giữ hồn quê và nâng tầm kinh tế ở xã Bình Minh

Giữ hồn quê và nâng tầm kinh tế ở xã Bình Minh

LNV - Nằm ở phía Tây Nam Hà Nội, xã Bình Minh đang nổi lên như một điểm sáng về phát triển nông nghiệp sinh thái kết hợp với làng nghề truyền thống.
Làng nghề chế biến cá khô Gia Thuận: Giữ hồn truyền thống, mở hướng phát triển bền vững

Làng nghề chế biến cá khô Gia Thuận: Giữ hồn truyền thống, mở hướng phát triển bền vững

LNV - Tại xã Gia Thuận, tỉnh Đồng Tháp, bên cạnh những cánh đồng lúa xanh bát ngát và những chuyến tàu đánh bắt hải sản tất bật, làng nghề chế biến cá khô đã hình thành và phát triển từ nhiều năm nay, trở thành một trong những ngành nghề mũi nhọn góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương. Không chỉ là nét văn hóa truyền thống, nghề chế biến cá khô còn đang mở ra những cơ hội mới về việc làm, nâng cao thu nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng.
Giữ hồn núi rừng qua đôi tay già làng Cơ Tu

Giữ hồn núi rừng qua đôi tay già làng Cơ Tu

LNV - Trong ngôi nhà sàn ba gian giữa núi rừng, già Bhling Bloó (70 tuổi, thôn Bhơ Hôồng, xã Sông Kôn, TP Đà Nẵng) vẫn cần mẫn bên bó tre, mây. Với ông, đan lát không chỉ là kế sinh nhai mà còn là cách để giữ lấy “cái gốc” của người Cơ Tu giữa nhịp sống hiện đại.
Giọt mắm Nam Ô và câu chuyện từ làng biển trăm năm tuổi

Giọt mắm Nam Ô và câu chuyện từ làng biển trăm năm tuổi

LNV - Giữa nhịp sống hiện đại của thành phố biển Đà Nẵng, làng cổ Nam Ô vẫn lặng lẽ giữ trong mình những giá trị văn hóa và nghề truyền thống hơn 700 năm tuổi. Nơi đây không chỉ nổi tiếng với cảnh quan thiên nhiên đặc sắc, những dấu tích lịch sử gắn với công chúa Huyền Trân, mà còn được biết đến là cái nôi của nghề làm nước mắm – một di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, niềm tự hào của cư dân miền biển.
Khát vọng phát triển từ làng nghề truyền thống đến trung tâm công nghiệp

Khát vọng phát triển từ làng nghề truyền thống đến trung tâm công nghiệp

LNV - Trong bối cảnh đô thị hóa và hội nhập, Tây Phương đang từng bước đổi mới, phát huy thế mạnh làng nghề gắn với phát triển du lịch, đồng thời mở rộng không gian công nghiệp và dịch vụ, hướng tới trở thành một trung tâm kinh tế - văn hóa quan trọng của Thủ đô.
Giữ hồn làng nghề bánh đa nem trăm năm tuổi ở Thổ Hà

Giữ hồn làng nghề bánh đa nem trăm năm tuổi ở Thổ Hà

LNV - Nằm ven sông Cầu hiền hòa, làng Thổ Hà (phường Vân Hà, tỉnh Bắc Ninh) từ lâu đã nổi tiếng khắp trong và ngoài nước với nghề làm bánh đa nem. Nghề đã tồn tại hàng trăm năm, trở thành nét văn hóa đặc trưng và là niềm tự hào của người dân địa phương.
Sức sống mới cho thủ công mỹ nghệ Thủ đô từ thị trường nội địa

Sức sống mới cho thủ công mỹ nghệ Thủ đô từ thị trường nội địa

LNV - Thủ công mỹ nghệ từ lâu được coi là một trong những ngành nghề truyền thống đặc sắc nhất của Thủ đô Hà Nội. Không chỉ mang đậm giá trị văn hóa, lịch sử, sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn góp phần quan trọng trong cơ cấu kinh tế nông thôn và xuất khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường quốc tế nhiều biến động, nhu cầu tiêu dùng trong nước đang trở thành một “nguồn lực mềm” mạnh mẽ, mở ra sức sống mới cho ngành thủ công mỹ nghệ Thủ đô.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Sản phẩm OCOP Cao Bằng vươn xa nhờ thương mại điện tử

Sản phẩm OCOP Cao Bằng vươn xa nhờ thương mại điện tử

OVN - Cao Bằng hiện có 174 sản phẩm OCOP được công nhận, trong đó 28 sản phẩm đã chính thức có mặt trên sàn thương mại điện tử buudien.vn. Đây là bước đi quan trọng giúp sản phẩm nông sản địa phương tiếp cận người tiêu dùng cả nước, đồng thời mở ra hướng
Khai mạc phiên chợ nông sản đặc sản 2025 tại Hà Nội

Khai mạc phiên chợ nông sản đặc sản 2025 tại Hà Nội

LNV - Sáng 18/9, tại Khu Hội chợ Triển lãm giao dịch Kinh tế và Thương mại (số 489 Hoàng Quốc Việt, Hà Nội), Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Trung tâm Xúc tiến thương mại Nông nghiệp tổ chức Phiên chợ Nông sản, Đặc sản vùng miền năm 2025, kết hợp Diễn đàn “Chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo trong phát triển nông nghiệp và bảo vệ môi trường”.
Xã Hưng Đạo (TP Hà Nội): Tự lực tự cường khắc phục khó khăn trong chuyển đổi chính quyền hai cấp

Xã Hưng Đạo (TP Hà Nội): Tự lực tự cường khắc phục khó khăn trong chuyển đổi chính quyền hai cấp

LNV - Xã Hưng Đạo nằm ở phía Tây Nam thủ đô Hà Nội. Hưng Đạo được sáp nhập từ diện tích và dân số 5 xã thuộc huyện Quốc Oai (cũ) bao gồm: Đồng Quang, Tân Phú, Đại Thành, Tân Hòa, Cộng Hòa. Hiện Hưng Đạo có diện tích 24,90km2; Dân số 49.357 người.
Kiểm tra chặt chẽ để đảm bảo an toàn thực phẩm Tết Trung thu 2025

Kiểm tra chặt chẽ để đảm bảo an toàn thực phẩm Tết Trung thu 2025

LNV - Trong dịp Tết Trung thu năm nay, lực lượng Quản lý thị trường Hà Nội đồng loạt ra quân kiểm tra, kiểm soát thị trường, đặc biệt là các cơ sở sản xuất, kinh doanh bánh trung thu. Chỉ sau ít ngày triển khai, nhiều vụ việc vi phạm đã bị phát hiện, góp
Thanh Hóa thúc đẩy bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

Thanh Hóa thúc đẩy bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

LNV - Thanh Hóa từ lâu đã nổi tiếng với nhiều làng nghề gắn bó mật thiết với đời sống, văn hóa và lịch sử. Trước thách thức của cơ chế thị trường, các làng nghề nơi đây đang khoác lên mình sức sống mới, vừa bảo tồn bản sắc, vừa tìm đường phát triển bền vữ
Giao diện di động