Nghệ sĩ Nhân dân Thúy Cải: “Được hát quan họ hạnh phúc biết bao

LNV - Nói đến Nghệ sĩ Nhân dân Thúy Cải, nguyên Trưởng đoàn Dân ca quan họ Bắc Ninh, đại biểu Quốc hội khóa IX, trước hết phải nói đến cái duyên quan họ. Mảnh đất Kinh Bắc đã sản sinh ra nhiều nghệ sĩ quan họ nhưng để khán giả yêu, khán giả nhớ về một người “có cái duyên quan họ” thì không phải ai cũng may mắn như bà.
66 tuổi, bà đã có 50 năm hát dân ca và cống hiến cho sân khấu quan họ chuyên nghiệp. Có thể nói bà là kết tinh của nhiều vẻ đẹp, chỉ cần khoác trên mình bộ trang phục liền chị, chít chiếc khăn mỏ quạ, khán giả đã thấy ở bà toát ra những nét duyên quan họ đằm thắm, duyên từ giọng nói, miệng cười, duyên từ ánh mắt, dáng đi và hơn hết bà có cái duyên ngay ở chính giọng hát của mình.

Những năm tháng không thể quên

Sinh ra ở xã Phật Tích (nay thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh), ngay từ những năm lên 6, Thúy Cải đã được người mẹ, vốn là người làng Ném Đoài, một trong những làng quan họ cổ, dạy hát những bài quan họ giọng vặt như: “Khách đến chơi nhà”, “Cây trúc xinh”, “Người ở đừng về”, “Ba sáu thứ chim”, “Lý Thiên Thai”... Hơn nữa, lại được sống trong một không gian làng quê đậm đà bản sắc với những câu hát quan họ khiến cô bé Cải ngày càng yêu thích và mong muốn được gắn cuộc đời mình với quan họ.

Tháng 5-1969, nghệ nhân Nguyễn Đức Siêu, sau là Trưởng đoàn đầu tiên của Đoàn Dân ca quan họ Hà Bắc có ý định chọn cô Canh, là chị gái của cô Cải vào Đội ca hát quan họ (lúc này chưa thành lập đoàn) vì nhan sắc có phần trội hơn. Thế nhưng, bà cụ thân sinh với kinh nghiệm của mình đã từ chối và kiên quyết cho cô em đi, vì theo bà “nhất thanh, nhì sắc”. Hơn nữa, bà thấy cô Cải có tố chất quan trọng của người hát, đó là “trường cổ đại thanh”. Đây chính là bước ngoặt trong cuộc đời của cô bé 16 tuổi.


NSND Thúy Cải với tiếng hát quan họ đi vào lòng đông đảo công chúng.


Thúy Cải là người thứ 9 được tuyển vào Đội ca hát quan họ. Nói là ca hát quan họ nhưng nhiệm vụ chính là sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và giới thiệu dân ca quan họ. Thúy Cải và các học viên nhập cuộc với bài hát “La rằng” (bài lề lối): “Hôm nay tứ hải giao tình/ Tuy rằng bốn bể nhưng sinh một nhà/ Hôm nay họp mặt giao hòa/ Nguyện xin nguyệt lão giăng già se duyên”. Lời có vậy mà cứ i a ư hự, học gần một tháng mà bẻ câu chưa thành.

Cuối năm 1969, cán bộ, diễn viên, nhạc công đã lên đến con số 30 người. Nơi tạm trú của Đội quan họ tại thôn Tĩnh Lộc, sau chuyển sang làng Lai (xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang). Ngoài học hát những bài quan họ cổ do nghệ nhân Nguyễn Đức Sôi truyền dạy, diễn viên và nhạc công được học các môn lý luận cơ bản tại Trường Văn hóa Nghệ thuật Hà Bắc. Ban đầu biết bao khó khăn, thiếu thốn như cơm phải đựng vào chậu đóng bằng gỗ, ăn tập trên sân kho đầm vôi cát, mỗi khi có cơn gió đi qua thì bụi bay mù mịt. Nhưng rồi khó khăn cũng qua, với một năm vừa học tập, vừa xây dựng tổ chức đơn vị, Đoàn dân ca quan họ Hà Bắc chính thức hình thành.

Kịch mục đầu tiên là ca cảnh “Cây sáo trúc” của tác giả Đào Thiệm cơ bản đã dựng xong. Tuy nhiên, dân ca quan họ là một thể loại ca hát trữ tình, với chức năng, nhiệm vụ của Đoàn lúc bấy giờ xem chừng chưa phù hợp. Vậy là Đoàn chuyển sang dựng các ca cảnh “Ngày hội năm xưa”, “Vào chùa”, “ Ông cháu”, “Giã bạn”… Đó là các ca cảnh quan họ được gom lại từ những nét sinh hoạt văn hóa tiêu biểu của quan họ rồi đưa lên sân khấu, sau gộp cả lại mang tựa đề “Quan họ ngày hội”.

Tháng 10-1970, Đoàn chuyển về xóm Chinh, làng Lũng Giang, xã Vân Tương, huyện Tiên Sơn (nay là huyện Tiên Du). Với phương châm bám vùng quan họ gốc để thực hiện nhiệm vụ sưu tầm các làn điệu, văn bản lời ca và lề lối sinh hoạt văn hóa quan họ… Còn về học hát quan họ cổ, hằng ngày diễn viên và nhạc công theo các nghệ nhân làm lụng ngoài đồng hay dọn dẹp ở nhà, tối đến mới có cơi trầu đến kính các bậc nghệ nhân xin được truyền lại cho những làn điệu, lời ca hay đôi ba câu đối đáp trước canh hát. Chuyện học hát những câu quan họ cổ dần dần đã có phần quen, nhưng lúc bấy giờ ở vùng quan họ mấy ai hát quan họ cổ (!), chỉ có đôi ba làn điệu được đặt lời mới phục vụ chính trị nên thường gọi là “Quan họ đài”, còn quan họ truyền thống gần như bị lãng quên. Hơn nữa, tại thời điểm đó nước nhà chưa thống nhất, kinh tế còn rất khó khăn, ai cũng lo làm lo ăn có nghĩ đâu đến việc ca hát.


Dân ca Quan họ đã được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.


“Mấy anh trai làng nghe chúng tôi học hát, cứ bảo chúng tôi học khấn tiên sư… Cũng buồn. Nhưng với nhiệt tình của tuổi trẻ nên việc học, việc sưu tầm và xây dựng chương trình biểu diễn vẫn cứ tiếp diễn trong nhiều tháng” - Nghệ sĩ Nhân dân Thúy Cải bồi hồi nhớ lại. Guồng máy đang có đà thì trận lụt lớn năm 1971 ập tới, cả vùng quan họ chìm trong biển nước, công tác phục vụ bão lụt lại đặt lên hàng đầu, lại chia năm xẻ bảy về từng xóm, thôn cùng bà con khắc phục hậu quả bão lụt. Cũng từ đây hai ca cảnh “Khóm trúc bên sông” và “Đống rạ ải” đã ra đời. Sau trận lụt, khó khăn vẫn chưa hết, Nhà nước phát động cán bộ, viên chức tự túc một phần lương thực. Chúng tôi về núi Hiểu, xã Quang Châu (nay thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) xin ruộng cày cấy. Ruộng chiêm trũng cấy gặt nước đều ngập tới thắt lưng, vị nào sợ đỉa thì khổ biết chừng nào. Yên ổn với những nhiệm vụ bất thường, công việc sưu tầm, xây dựng chương trình biểu diễn lại chóng mặt. “Đón bạn ngày xuân” là chương trình quan họ truyền thống thứ hai, mô phỏng cảnh liền anh, liền chị các làng quan họ luyện hát, sắm sửa chuẩn bị cho việc đón bạn kết nghĩa của mình khi mùa xuân tới”.

“Có công mài sắt có ngày nên kim”, sau khi kết thúc khóa học, Thúy Cải và các học viên đã sưu tầm và hát được hơn 200 làn điệu quan họ với hơn 500 bài ca quan họ. Trong đó có hàng trăm bài quan họ gốc thể hiện rõ những giá trị đặc trưng của loại hình dân ca đặc sắc phổ biến ở vùng quê Kinh Bắc cùng những lề lối sinh hoạt truyền thống. Các chương trình biểu diễn của Đoàn được các diễn viên, nhạc công thể hiện khá thuần thục. Sau đó, Đoàn có hai đợt biểu diễn báo cáo Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cơ quan quản lý văn hóa, các nhà nghiên cứu cùng cán bộ, nhân dân Thủ đô một cách thành công, khẳng định và gợi ra một tầm nhìn đúng đắn về dân ca quan họ nói riêng, nghệ thuật truyền thống Việt Nam nói chung. Đó là năm 1974. Cũng từ đấy biết bao đoàn khách trong và ngoài nước đã về Bắc Ninh nghe hát dân ca quan họ và đặc biệt là tìm hiểu về hát canh trong quan họ. Cũng năm ấy là cái mốc đánh dấu sự hồi sinh của dân ca quan họ, bởi đó là năm người dân miền Bắc xem bộ phim “Đến hẹn lại lên” mà trong đó Thúy Cải đã có một vai diễn để đời. Cùng với việc đưa Đoàn đi biểu diễn phục vụ Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và khách quốc tế xem, quan họ Bắc Ninh đã thực sự “sống lại” như lời nhận xét của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Hoàng Minh Giám lúc bấy giờ.

Đã khẳng định mình thì phải gánh vác nhiệm vụ mới, năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Nam - Bắc sum họp một nhà, Đoàn chính thức nhận kế hoạch biểu diễn phục vụ nhân dân hằng năm. Những buổi biểu diễn phục vụ quân và dân, máy phát điện được cải tiến từ máy bơm nước Ba Lan, phương tiện vận chuyển thì bằng xe cải tiến, xe bò, người kéo, xe đạp cá nhân… Buổi đầu tiên tại bãi chiếu bóng đồi Lim, đúng là trời vui, đất vui, nhân dân vui - một môn nghệ thuật được đưa lên sân khấu hoàn toàn mới mẻ. Anh chị em trong Đoàn ai nấy đều phấp phỏng lo âu về cái “vạn sự khởi đầu nan” này. Trong tâm trạng đan xen vui mừng, lo âu khó ai đo đếm, các đồng chí lãnh đạo còn lo gấp bội. Nhưng rồi phấn khởi bất ngờ. Mới chập tối điểm bán vé vừa lên đèn mà khán giả đã từ các ngả đường ùn ùn kéo đến. Vé bán không kịp, người dồn vào bãi mỗi lúc một đông, cửa xé vé ùn tắc, xé vé không kịp, chen chúc, cản không xong, rồi vỡ òa tháo khoán... Với Thúy Cải, việc khán giả ủng hộ cho đêm diễn thành công là niềm hạnh phúc lớn nhất rồi.

Chuỗi ngày tươi sáng đang bừng chiếu thì đột nhiên xuất hiện nhiệm vụ mới. Thúy Cải và các nghệ sĩ lại hành quân lên biên giới phía bắc phục vụ các chiến sĩ đang ngày đêm chiến đấu bảo vệ biên cương Tổ quốc. Từng tốp, từng tốp hát “chay”, không có thiết bị, mưa rét vẫn hát. Mặc bom rơi, đạn nổ, tiếng hát, tiếng đàn của các nghệ sĩ vẫn nồng cháy, vút bay làm ấm lòng bao chiến sĩ. Những năm đầu của thập niên 80, nhiều chương trình thể nghiệm được dàn dựng như “Sự tích trầu cau”, “Đôi ngọc lưu ly”, “Chuyện tình Tiên Du”; các ca cảnh như “Khúc hát đảo xa”, “Khúc hát làng sông”. Các chương trình ca múa nhạc cùng với các chương trình quan họ truyền thống đã giới thiệu tới đông đảo khán giả trong và ngoài nước, đóng góp tích cực vào việc bảo tồn và lan tỏa di sản quan họ trong đời sống đương đại.

Vẫn đắm say trên con đường đã chọn

Nhiều người yêu quan họ đều nhận xét rằng nghe Thúy Cải hát một lần sẽ nhớ, nhớ rồi sẽ thích, thích rồi sẽ mê. Với bà, dù biểu diễn trên sân khấu đơn sơ nơi vùng sâu, vùng xa hay sân khấu sang trọng ở nước ngoài, dù biểu diễn cho những người dân lao động chân lấm tay bùn hay những chính khách thì cứ được hát quan họ là hạnh phúc biết bao. 50 năm trong nghề, ngoài giọng hát quan họ say đắm lòng người thì bà còn là vị lãnh đạo hết lòng vì công việc. 12 năm trên cương vị Trưởng đoàn Dân ca quan họ Bắc Ninh, Thúy Cải không chỉ nỗ lực để anh chị em trong Đoàn sống tốt bằng nghề mà còn cố gắng để quan họ đến được với nhiều vùng quê trong cả nước. Bà đã nhiều lần đi nói chuyện trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa ở các trường học để lớp trẻ hiểu và yêu quan họ cũng như văn hóa của người quan họ.

Có một công việc mà Nghệ sĩ Nhân dân Thúy Cải cũng rất miệt mài, tâm huyết, đó là giảng dạy tại các cơ sở đào tạo quan họ ở Bắc Ninh, Bắc Giang. Theo bà, một giọng hát quan họ hay thì phải vang, rền, nền, nảy, mà “nảy” trong quan họ rất quan trọng nhưng không phải ai cũng hát được. Muốn giọng hát “nảy” được thì thế hệ trẻ phải học hỏi rất nhiều, ngoài học trường lớp còn phải học các nghệ nhân ở các làng quan họ cổ cùng quá trình tập luyện kỳ công. Đặc biệt, bà rất quan tâm đến việc truyền tình yêu quan họ đến với các em nhỏ. Bởi theo bà, chính các em sẽ góp phần không nhỏ trong việc giữ gìn và bảo tồn văn hóa truyền thống của quê hương. Được biết, khoảng 10 năm trở lại đây, khi đã trở về quê nhà dưới chân núi Bất Lự (xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) sinh sống, cứ mỗi chủ nhật bà lại đứng lớp dạy các em nhỏ hát quan họ. Những giá trị của làn điệu dân ca truyền thống từ bao đời nay là không thể phủ nhận vì thế những lớp học truyền khẩu như vậy dường như là biện pháp tốt nhất để có thể truyền thụ một cách rõ ràng, hiệu quả nhất những tinh hoa truyền thống.

Với những đóng góp không ngừng nghỉ cho dân ca quan họ nói riêng, cho âm nhạc truyền thống nói chung, bà đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Nghệ sĩ Nhân dân vào năm 2015. Thế nhưng, trò chuyện với tôi hôm nay, trong một buổi chiều đông 2019, bà lại bảo rằng: Danh hiệu ấy là rất quý nhưng quan trọng và hạnh phúc hơn là đi đến đâu người ta cũng biết đến bà và mong muốn được trực tiếp nghe bà hát.

Đạt được những thành công trong ngày hôm nay, bà vẫn luôn tâm niệm nếu không có chồng con thì mình không làm được gì hết. Học cùng nhau ở Trường Văn hóa Nghệ thuật Hà Bắc rồi sau này công tác cùng Đoàn (chồng bà phụ trách âm thanh, ánh sáng), vợ chồng bà luôn kề vai sát cánh trong mọi hành trình. Ngoài làm việc ở Đoàn quan họ, bà còn tham gia HĐND tỉnh, là đại biểu Quốc hội khóa IX (1992-1997). Như vậy có nghĩa là công việc rất bận rộn, chồng bà đã tự nguyện lùi về phía sau, lo lắng, chăm sóc con cái, nhà cửa cho bà yên tâm công tác. Có lẽ vì vậy bà luôn cảm thấy may mắn vì có hậu phương vững chắc là gia đình. Vì thế, dù cho có những lúc thăng hoa trên sân khấu nhưng không bao giờ bà quên phép tắc gia phong và giữ gìn chính mình trong lề lối nghiêm ngặt của người quan họ. Bởi vậy, bà có một cuộc sống hạnh phúc, đầm ấm nhiều người mơ ước. Được biết, người con gái lớn của bà là chị Lê Ngọc Lương, hiện là Trưởng Phòng Nghệ thuật quần chúng, Trung tâm Văn hóa tỉnh Bắc Ninh, cũng đang tiếp nối người mẹ của mình để lan tỏa dân ca quan họ nói riêng và văn hóa nghệ thuật nói chung.

Đến bây giờ mặc dù đã nghỉ hưu, nhưng trong lòng bà vẫn còn canh cánh với ước mơ quan họ ngày nào. “Cái phải ghi nhớ đó là ai đã tạo ra và để lại cho người dân Bắc Ninh hôm nay nền văn hiến Kinh Bắc, trong đó có quan họ. Nhân dân biết trân trọng nền văn hiến của địa phương mà giữ gìn đến ngày nay, để Thúy Cải cùng bao nghệ sĩ khác được thừa hưởng hương thơm ấy, để rồi được vinh danh. 50 năm - nửa thế kỷ, dài mà ngắn. Dài ngắn đâu kể, mà là kể cái ta được thừa hưởng hương thơm của dân ca quan họ; ngược lại chúng ta tri ân được bao nhiêu cho sự trường tồn của dân ca quan họ, ấy mới là điều cần gắng sức. Các bạn trẻ hãy vì nghệ thuật mà lao động, sáng tạo để xứng đáng với những giá trị văn hóa quan họ mà người xưa để lại, xứng với miền quê văn hiến mà mình đã sinh ra. Nay thế hệ đi trước đang bước vào tuổi “thất thập cổ lai hi” muốn vương vấn với quan họ mà lực bất tòng tâm. Tương lai trên con đường gìn giữ và phát triển dân ca quan họ nhờ cậy cả vào thế hệ hôm nay. Những mong các bạn hãy đem loại hình nghệ thuật hát dân ca quan họ Bắc Ninh hòa vào cuộc sống bằng tâm huyết thực sự và tài năng sáng tạo của thời đại mới. Như vậy dân ca quan họ Bắc Ninh sẽ mãi mãi trường tồn và lan tỏa”, Nghệ sĩ Nhân dân Thúy Cải nghẹn ngào chia sẻ.

Kỳ lạ thay cuộc đời của một người nghệ sĩ với gần 70 năm tuổi đời, 35 tuổi đảng, 50 năm gắn bó, sắt son với quan họ nhưng nét duyên quan họ vẫn còn nguyên, cả thanh và sắc vẫn giữ được bền, chỉ chín chắn hơn, đằm thắm hơn và sâu nặng nghĩa tình hơn mà thôi. Có lẽ vì thế mà người bạn diễn suốt nửa thế kỷ của bà là Nghệ sĩ Ưu tú Quý Tráng từng nhận xét rằng: “Quan họ sinh ra để dành cho Thúy Cải như một bông hoa nguyên chất không cần cấy ghép”.

Bài và ảnh Ngô Đăng Khoa

Tin liên quan

Tin mới hơn

Đệ Nhất Đỉnh: Mỗi đỉnh đồng Pháp lam là một tác phẩm nghệ thuật độc bản

Đệ Nhất Đỉnh: Mỗi đỉnh đồng Pháp lam là một tác phẩm nghệ thuật độc bản

LNV - Mỗi đỉnh đồng Pháp lam của Đệ Nhất Đỉnh là sự hòa quyện giữa kim loại và lửa, giữa kỹ nghệ chạm khắc truyền thống và nghệ thuật cung đình. Với hoa văn rực rỡ, đường chạm tinh xảo và triết lý ngũ hành ẩn chứa, từng đỉnh đồng không chỉ là vật phẩm thờ tự, mà còn là tác phẩm nghệ thuật lưu giữ tinh hoa văn hóa Việt.
Những người giữ lửa ở làng bánh tráng Phú Hòa Đông

Những người giữ lửa ở làng bánh tráng Phú Hòa Đông

LNV - Dù đã trải qua bao thăng trầm cùng dòng chảy thời gian, làng nghề bánh tráng Phú Hòa Đông (huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh) vẫn bền bỉ tồn tại, giữ nguyên hồn cốt của nghề truyền thống cha ông để lại.
Nghĩa Đồng làm giàu từ nghề nuôi ong

Nghĩa Đồng làm giàu từ nghề nuôi ong

LNV - Nghĩa Đồng là xã miền núi của tỉnh Nghệ An, nơi đây có nhiều loại cây, nhiều loại hoa tự nhiên... do vậy rất thích hợp để nuôi ong lấy mật. Nghề nuôi ong ở Nghĩa Đồng đã có truyền thống từ hàng chục năm, tuy nhiên thời kỳ đầu chủ yếu mô hình chỉ mang tính tự phát. Sản phẩm làm ra chủ yếu phục vụ nhu cầu tại chỗ. Những năm gần đây, người dân Nghĩa Đồng đã thành lập tổ hợp tác nuôi ong lấy mật, xây dựng thành công sản phẩm OCOP…
Những nghệ nhân thổi hồn cho "Tinh hoa Thu Hà Nội"

Những nghệ nhân thổi hồn cho "Tinh hoa Thu Hà Nội"

LNV - Tại Hội chợ Mùa Thu 2025, không gian “Tinh hoa Thu Hà Nội” trở thành điểm nhấn độc đáo, nơi hội tụ hơn 30 nghệ nhân tiêu biểu đại diện cho các làng nghề truyền thống của Thủ đô.
Người thầy Mo và hành trình giữ lửa văn hóa Mường

Người thầy Mo và hành trình giữ lửa văn hóa Mường

LNV - Nơi chân núi Khụ Khênh, xã Thượng Cốc (Phú Thọ), vẫn vang vọng tiếng chiêng Mường qua từng mùa lúa chín. Ở đó, Nghệ nhân Nhân dân Bùi Văn Minh – người thầy Mo của bản Mường đã dành cả đời để sưu tầm, gìn giữ và truyền lại linh hồn văn hóa dân tộc cho thế hệ mai sau.
Người giữ nghề giấy bản của người Nùng

Người giữ nghề giấy bản của người Nùng

LNV - Giữa non nước Cao Bằng hùng vĩ, làng Dìa Trên (xã Quảng Uyên) vẫn lưu giữ một nghề truyền thống độc đáo nghề làm giấy bản của người Nùng. Từ đôi bàn tay khéo léo và tấm lòng bền bỉ của những người thợ, đặc biệt là nghệ nhân Nông Thị Kính, nghề thủ công tưởng chừng giản dị ấy vẫn được gìn giữ như một phần hồn của bản làng.

Tin khác

Trao vị thế xứng đáng cho nghệ nhân làng nghề Việt

Trao vị thế xứng đáng cho nghệ nhân làng nghề Việt

LNV - Một trong những điểm đột phá và nhân văn nhất của Nghị định 235 là mở rộng đối tượng thụ hưởng, chính thức đưa Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú và các nghệ nhân làng nghề vào danh mục được hưởng chính sách khuyến công.
Hà Nội chuẩn bị đón Festival Làng nghề Quốc tế 2025

Hà Nội chuẩn bị đón Festival Làng nghề Quốc tế 2025

LNV - Festival Bảo tồn và Phát triển Làng nghề Quốc tế 2025 sẽ chính thức diễn ra tại Trung tâm Di sản Hoàng thành Thăng Long, Hà Nội từ ngày 14 đến 18/11/2025 với không gian văn hóa mang biểu tượng của chiều sâu lịch sử và văn minh Đại Việt.
Nghệ nhân gìn giữ tinh hoa văn hóa dân tộc

Nghệ nhân gìn giữ tinh hoa văn hóa dân tộc

LNV - Với bàn tay khéo léo, khối óc tinh tường và tình yêu nghề sâu nặng, các nghệ nhân chính là “báu vật nhân văn sống”, góp phần làm rạng danh bản sắc Việt trên bản đồ văn hóa nhân loại.
Sức sống mới từ Làng nghề: Đào tạo thực chiến, giữ lửa truyền thống

Sức sống mới từ Làng nghề: Đào tạo thực chiến, giữ lửa truyền thống

LNV - Hà Nội, nơi hội tụ hàng trăm làng nghề truyền thống, công tác truyền nghề và đào tạo nghề cho thế hệ trẻ đang được xem là “chìa khóa” để bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa nghề, đồng thời đáp ứng nhu cầu nhân lực có tay nghề cao cho các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn hiện nay.
Giữ hồn bún Mạch Tràng – nghề trăm năm giữa lòng Cổ Loa

Giữ hồn bún Mạch Tràng – nghề trăm năm giữa lòng Cổ Loa

LNV - Giữa vùng đất Cổ Loa – nơi lưu giữ bao lớp trầm tích lịch sử, làng Mạch Tràng vẫn bền bỉ gìn giữ nghề làm bún truyền thống. Dẫu thời gian đổi thay, sợi bún trắng ngần vẫn là niềm tự hào và biểu tượng của tinh hoa quê hương.
Nghề gốm Việt – Dòng chảy nghìn năm

Nghề gốm Việt – Dòng chảy nghìn năm

LNV - Từ thuở con người biết lấy đất nặn hình, nung trong lửa để tạo nên vật dụng, gốm đã trở thành chứng nhân của nền văn minh Việt. Qua hàng nghìn năm, từ bàn tay khéo léo của người thợ, từ lò gốm thô sơ nơi làng quê đến những xưởng hiện đại hôm nay, nghề gốm Việt vẫn bền bỉ giữ hồn đất, hồn người qua từng thớ men, từng đường nét tinh xảo.
Làng hương Sơn Nam vào vụ Tết

Làng hương Sơn Nam vào vụ Tết

LNV - Những ngày này, làng nghề làm hương ở tổ dân phố Cao (phường Sơn Nam, Ninh Bình) lại rộn ràng vào vụ sản xuất cao điểm nhất. Mùi hương thảo mộc lan tỏa trong gió, báo hiệu mùa làm ăn bội thu và khẳng định sức sống bền bỉ của nghề truyền thống hơn nửa thế kỷ qua.
Xã Sơn Đồng (TP Hà Nội): Sẵn sàng cho đề cử làng nghề truyền thống Hà Nội tham gia mạng lưới các thành phố Thủ công sáng tạo Thế giới

Xã Sơn Đồng (TP Hà Nội): Sẵn sàng cho đề cử làng nghề truyền thống Hà Nội tham gia mạng lưới các thành phố Thủ công sáng tạo Thế giới

LNV - Làng nghề tạc tượng gỗ, tượng sơn son thếp vàng Sơn Đồng thu hút giới sành đồ thờ, trang trí bởi giá trị văn hóa truyền thống, lịch sử. Đây là làng nghề có sức sống bền bỉ theo suốt chiều dài lịch sử đất nước. Có lúc thăng lúc trầm nhưng mạch nguồn nghề truyền thống tạc tượng sơn son thiếp vàng Sơn Đồng luôn khắc sâu trong từng hoa văn họa tiết từng thời kỳ của lịch sử đất nước. Điều đó minh chứng cho quan niệm “còn làng còn nước” của cha ông ta. Theo đó, Sơn Đồng lưu giữ nhiều di tích cổ: đình, chùa, đền, nhà thờ tổ, … Sản phẩm của Làng nghề mỹ nghệ Sơn Đồng chiếm khoảng trên 70% thị phần toàn quốc về tượng và đồ thờ sơn son thếp vàng, bạc phục vụ đời sống văn hóa tâm linh tín ngưỡng của người dân. Sản phẩm làng nghề xã Sơn Đồng đang có mặt trên cả nước từ Bắc vào Nam, từ đất liền đến hải đảo, sang cả châu Âu, châu Mỹ tại các nước: Nga, Ucraina, Pháp, Mỹ và các nước Đông Nam Á: Thái Lan, Lào, Campuchia.
Người đàn ông giữ hồn thổ cẩm Chăm giữa lòng Phũm Soài

Người đàn ông giữ hồn thổ cẩm Chăm giữa lòng Phũm Soài

LNV - Giữa nhịp sống hiện đại, ở ấp Phũm Soài, xã Châu Phong (tỉnh An Giang), ông Mohamad vẫn ngày ngày cần mẫn bên khung cửi. Những sợi chỉ, mảnh vải qua đôi tay ông không chỉ kết thành tấm thổ cẩm rực rỡ mà còn dệt nên ký ức, niềm tự hào và bản sắc văn hóa của đồng bào Chăm nơi đây.
Táo Ninh Thuận - Đặc sản vùng đất nắng gió vươn tầm thương hiệu

Táo Ninh Thuận - Đặc sản vùng đất nắng gió vươn tầm thương hiệu

LNV - Giữa dải đất miền Trung đầy nắng và gió, vùng đất Ninh Thuận – nay thuộc tỉnh Khánh Hòa từ lâu đã được biết đến là vùng đất khô hạn, song lại ẩn chứa những giá trị nông nghiệp độc đáo mà thiên nhiên ban tặng. Trong đó có một đặc sản trái cây độc đáo – Táo Ninh Thuận.
Từ bản nhỏ Châu Tiến sắc thổ cẩm Thái lan tỏa thế giới

Từ bản nhỏ Châu Tiến sắc thổ cẩm Thái lan tỏa thế giới

LNV - Từ đôi tay bền bỉ của nghệ nhân Sầm Thị Bích, những sợi tơ thấm màu rừng núi đã hồi sinh, kéo theo cả bản mường thức dậy cùng hoa văn thổ cẩm. Hơn ba thập niên gắn bó với nghề, bà không chỉ khôi phục ký ức văn hóa của người Thái mà còn dệt nên con đường mới cho kinh tế bản, đưa sắc thổ cẩm Hoa Tiến lan tỏa ra thế giới.
Hiệp định EVFTA – Cầu nối đưa sản phẩm làng nghề Hà Nội ra thế giới

Hiệp định EVFTA – Cầu nối đưa sản phẩm làng nghề Hà Nội ra thế giới

LNV - Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) được ví như “cầu nối vàng” giúp các sản phẩm làng nghề truyền thống của Hà Nội mở rộng thị trường xuất khẩu, khẳng định vị thế mới trên bản đồ thủ công mỹ nghệ quốc tế. Với những ưu đãi về thuế quan, quy tắc xuất xứ và tiêu chuẩn kỹ thuật, EVFTA không chỉ tạo thuận lợi thương mại mà còn thúc đẩy quá trình chuyển đổi chất lượng – tiêu chuẩn – thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề.
Nước mắm Cà Ná - Tinh hoa vùng biển Khánh Hòa

Nước mắm Cà Ná - Tinh hoa vùng biển Khánh Hòa

LNV - Những chú cá cơm ngọt tươi, nẩy thịt, giàu đạm ướp với muối tinh chất tốt nhất vùng Đông Nam Á theo công thức ủ chượp - kéo rút gia truyền đã tích lũy qua trăm năm, tạo nên đặc sản nước mắm Cà Ná màu hổ phách với vị đậm đà, thơm ngon đến đến giọt cuối cùng.
Nhớ mùa đay quê tôi

Nhớ mùa đay quê tôi

LNV - Những năm 60 của thế kỷ trước (tỉnh Hưng Yên cũ) từng coi cây đay là một cây trồng chiến lược, một loại cây trồng lấy tơ đay xuất khẩu. Cây đay gắn bó với người dân quê tôi khoảng 30 năm. Nó cũng gắn trọn tuổi thơ của tôi.
Níu giữ hơi thở sông nước miền Tây với nghề đan lọp Thới Long

Níu giữ hơi thở sông nước miền Tây với nghề đan lọp Thới Long

LNV - Giữa nhịp sống hối hả của thành phố Cần Thơ, ở phường Thới Long vẫn còn vang vọng tiếng dao chẻ tre, tiếng lạt đan lọp lách cách – âm thanh quen thuộc của một nghề đã tồn tại hơn nửa thế kỷ. Những đôi tay chai sạn, những người thợ tóc bạc vẫn cặm cụi ngày đêm bên đống tre vàng úa, gìn giữ nghề đan lọp truyền thống – một phần ký ức và bản sắc của miền sông nước đồng bằng.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Gia Lai triển khai các biện pháp ứng phó bão số 13 - Kalmaegi, bảo vệ tính mạng và tài sản Nhân dân

Gia Lai triển khai các biện pháp ứng phó bão số 13 - Kalmaegi, bảo vệ tính mạng và tài sản Nhân dân

LNV - Trước diễn biến phức tạp của bão số 13 (tên quốc tế Kalmaegi) được dự báo là cơn bão mạnh, di chuyển nhanh và có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến khu vực Gia Lai - Quảng Ngãi trong những ngày tới, tỉnh Gia Lai chủ động kích hoạt cấp độ ứng phó cao n
Gia Lai: Lễ mừng lúa mới là khúc ca hòa điệu giữa con người và thiên nhiên

Gia Lai: Lễ mừng lúa mới là khúc ca hòa điệu giữa con người và thiên nhiên

LVN - Với đồng bào Gia Rai, khi những hạt lúa vàng được thu về đầy kho cũng là lúc đất trời như giao hòa, lòng người rộn rã. Đấy là thời điểm thiêng liêng để tổ chức Lễ mừng lúa mới (còn gọi Lễ ăn cơm mới), một nghi lễ cổ truyền mang đậm dấu ấn văn hóa củ
Trường Tiểu học Hoằng Phụ Điểm sáng trong các phong trào thi đua dạy và học

Trường Tiểu học Hoằng Phụ Điểm sáng trong các phong trào thi đua dạy và học

LNV – Những năm qua, Trường Tiểu học Hoằng Phụ, xã Hoằng Thanh, tỉnh Thanh Hóa đã không ngừng nỗ lực phấn đấu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, luôn được các cấp lãnh đạo, nhân dân quan tâm, tin tưởng và đánh giá cao về đổi mới công tác quản lí giáo dục, cũng như nâng cao chất lượng dạy học. Cơ sở vật chất của nhà trường được đầu tư xây dựng theo hướng kiên cố hóa, đáp ứng các yêu cầu của trường chuẩn quốc gia mức độ 2; phong trào thi đua xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực tiếp tục được duy trì và hoạt động có hiệu quả.
Trường mầm non Nga An Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ

Trường mầm non Nga An Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ

LNV - Trường mầm non Nga An, xã Nga An, tỉnh Thanh Hóa được thành lập năm 1965. Từ khi thành lập, trường thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ theo sự chỉ đạo của ngành giáo dục; cũng như sự chỉ đạo của Đảng, chính quyền để thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ luôn được củng cố, nâng cao và phát triển vững mạnh. Nhà trường có nhiều học sinh giỏi, giáo viên giỏi, nhiều năm liên tục đạt danh hiệu tiên tiến, tập thể lao động tiên tiến, trường được công nhận trường mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ II sau 5 năm. Năm học 2024 – 2025 nhà trường đã có nhiều cố gắng vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm học.
Hội chợ Triển lãm Nông nghiệp Quốc tế lần thứ 25: Kết tinh truyền thống, vươn tầm hội nhập

Hội chợ Triển lãm Nông nghiệp Quốc tế lần thứ 25: Kết tinh truyền thống, vươn tầm hội nhập

Tại buổi họp báo sáng nay, Ban tổ chức Hội chợ Triển lãm Nông nghiệp Quốc tế lần thứ 25 đã thông tin về công tác chuẩn bị cho sự kiện quy mô quốc gia – nơi quy tụ những thành tựu, sản phẩm và công nghệ nông nghiệp tiên tiến, mang chủ đề “Kết tinh truyền t
Giao diện di động