Hà Nội: 25°C Hà Nội
Đà Nẵng: 27°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 27°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 25°C Thừa Thiên Huế

Nghệ sĩ Nhân dân Thúy Cải: “Được hát quan họ hạnh phúc biết bao

LNV - Nói đến Nghệ sĩ Nhân dân Thúy Cải, nguyên Trưởng đoàn Dân ca quan họ Bắc Ninh, đại biểu Quốc hội khóa IX, trước hết phải nói đến cái duyên quan họ. Mảnh đất Kinh Bắc đã sản sinh ra nhiều nghệ sĩ quan họ nhưng để khán giả yêu, khán giả nhớ về một người “có cái duyên quan họ” thì không phải ai cũng may mắn như bà.
66 tuổi, bà đã có 50 năm hát dân ca và cống hiến cho sân khấu quan họ chuyên nghiệp. Có thể nói bà là kết tinh của nhiều vẻ đẹp, chỉ cần khoác trên mình bộ trang phục liền chị, chít chiếc khăn mỏ quạ, khán giả đã thấy ở bà toát ra những nét duyên quan họ đằm thắm, duyên từ giọng nói, miệng cười, duyên từ ánh mắt, dáng đi và hơn hết bà có cái duyên ngay ở chính giọng hát của mình.

Những năm tháng không thể quên

Sinh ra ở xã Phật Tích (nay thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh), ngay từ những năm lên 6, Thúy Cải đã được người mẹ, vốn là người làng Ném Đoài, một trong những làng quan họ cổ, dạy hát những bài quan họ giọng vặt như: “Khách đến chơi nhà”, “Cây trúc xinh”, “Người ở đừng về”, “Ba sáu thứ chim”, “Lý Thiên Thai”... Hơn nữa, lại được sống trong một không gian làng quê đậm đà bản sắc với những câu hát quan họ khiến cô bé Cải ngày càng yêu thích và mong muốn được gắn cuộc đời mình với quan họ.

Tháng 5-1969, nghệ nhân Nguyễn Đức Siêu, sau là Trưởng đoàn đầu tiên của Đoàn Dân ca quan họ Hà Bắc có ý định chọn cô Canh, là chị gái của cô Cải vào Đội ca hát quan họ (lúc này chưa thành lập đoàn) vì nhan sắc có phần trội hơn. Thế nhưng, bà cụ thân sinh với kinh nghiệm của mình đã từ chối và kiên quyết cho cô em đi, vì theo bà “nhất thanh, nhì sắc”. Hơn nữa, bà thấy cô Cải có tố chất quan trọng của người hát, đó là “trường cổ đại thanh”. Đây chính là bước ngoặt trong cuộc đời của cô bé 16 tuổi.


NSND Thúy Cải với tiếng hát quan họ đi vào lòng đông đảo công chúng.


Thúy Cải là người thứ 9 được tuyển vào Đội ca hát quan họ. Nói là ca hát quan họ nhưng nhiệm vụ chính là sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và giới thiệu dân ca quan họ. Thúy Cải và các học viên nhập cuộc với bài hát “La rằng” (bài lề lối): “Hôm nay tứ hải giao tình/ Tuy rằng bốn bể nhưng sinh một nhà/ Hôm nay họp mặt giao hòa/ Nguyện xin nguyệt lão giăng già se duyên”. Lời có vậy mà cứ i a ư hự, học gần một tháng mà bẻ câu chưa thành.

Cuối năm 1969, cán bộ, diễn viên, nhạc công đã lên đến con số 30 người. Nơi tạm trú của Đội quan họ tại thôn Tĩnh Lộc, sau chuyển sang làng Lai (xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang). Ngoài học hát những bài quan họ cổ do nghệ nhân Nguyễn Đức Sôi truyền dạy, diễn viên và nhạc công được học các môn lý luận cơ bản tại Trường Văn hóa Nghệ thuật Hà Bắc. Ban đầu biết bao khó khăn, thiếu thốn như cơm phải đựng vào chậu đóng bằng gỗ, ăn tập trên sân kho đầm vôi cát, mỗi khi có cơn gió đi qua thì bụi bay mù mịt. Nhưng rồi khó khăn cũng qua, với một năm vừa học tập, vừa xây dựng tổ chức đơn vị, Đoàn dân ca quan họ Hà Bắc chính thức hình thành.

Kịch mục đầu tiên là ca cảnh “Cây sáo trúc” của tác giả Đào Thiệm cơ bản đã dựng xong. Tuy nhiên, dân ca quan họ là một thể loại ca hát trữ tình, với chức năng, nhiệm vụ của Đoàn lúc bấy giờ xem chừng chưa phù hợp. Vậy là Đoàn chuyển sang dựng các ca cảnh “Ngày hội năm xưa”, “Vào chùa”, “ Ông cháu”, “Giã bạn”… Đó là các ca cảnh quan họ được gom lại từ những nét sinh hoạt văn hóa tiêu biểu của quan họ rồi đưa lên sân khấu, sau gộp cả lại mang tựa đề “Quan họ ngày hội”.

Tháng 10-1970, Đoàn chuyển về xóm Chinh, làng Lũng Giang, xã Vân Tương, huyện Tiên Sơn (nay là huyện Tiên Du). Với phương châm bám vùng quan họ gốc để thực hiện nhiệm vụ sưu tầm các làn điệu, văn bản lời ca và lề lối sinh hoạt văn hóa quan họ… Còn về học hát quan họ cổ, hằng ngày diễn viên và nhạc công theo các nghệ nhân làm lụng ngoài đồng hay dọn dẹp ở nhà, tối đến mới có cơi trầu đến kính các bậc nghệ nhân xin được truyền lại cho những làn điệu, lời ca hay đôi ba câu đối đáp trước canh hát. Chuyện học hát những câu quan họ cổ dần dần đã có phần quen, nhưng lúc bấy giờ ở vùng quan họ mấy ai hát quan họ cổ (!), chỉ có đôi ba làn điệu được đặt lời mới phục vụ chính trị nên thường gọi là “Quan họ đài”, còn quan họ truyền thống gần như bị lãng quên. Hơn nữa, tại thời điểm đó nước nhà chưa thống nhất, kinh tế còn rất khó khăn, ai cũng lo làm lo ăn có nghĩ đâu đến việc ca hát.


Dân ca Quan họ đã được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.


“Mấy anh trai làng nghe chúng tôi học hát, cứ bảo chúng tôi học khấn tiên sư… Cũng buồn. Nhưng với nhiệt tình của tuổi trẻ nên việc học, việc sưu tầm và xây dựng chương trình biểu diễn vẫn cứ tiếp diễn trong nhiều tháng” - Nghệ sĩ Nhân dân Thúy Cải bồi hồi nhớ lại. Guồng máy đang có đà thì trận lụt lớn năm 1971 ập tới, cả vùng quan họ chìm trong biển nước, công tác phục vụ bão lụt lại đặt lên hàng đầu, lại chia năm xẻ bảy về từng xóm, thôn cùng bà con khắc phục hậu quả bão lụt. Cũng từ đây hai ca cảnh “Khóm trúc bên sông” và “Đống rạ ải” đã ra đời. Sau trận lụt, khó khăn vẫn chưa hết, Nhà nước phát động cán bộ, viên chức tự túc một phần lương thực. Chúng tôi về núi Hiểu, xã Quang Châu (nay thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) xin ruộng cày cấy. Ruộng chiêm trũng cấy gặt nước đều ngập tới thắt lưng, vị nào sợ đỉa thì khổ biết chừng nào. Yên ổn với những nhiệm vụ bất thường, công việc sưu tầm, xây dựng chương trình biểu diễn lại chóng mặt. “Đón bạn ngày xuân” là chương trình quan họ truyền thống thứ hai, mô phỏng cảnh liền anh, liền chị các làng quan họ luyện hát, sắm sửa chuẩn bị cho việc đón bạn kết nghĩa của mình khi mùa xuân tới”.

“Có công mài sắt có ngày nên kim”, sau khi kết thúc khóa học, Thúy Cải và các học viên đã sưu tầm và hát được hơn 200 làn điệu quan họ với hơn 500 bài ca quan họ. Trong đó có hàng trăm bài quan họ gốc thể hiện rõ những giá trị đặc trưng của loại hình dân ca đặc sắc phổ biến ở vùng quê Kinh Bắc cùng những lề lối sinh hoạt truyền thống. Các chương trình biểu diễn của Đoàn được các diễn viên, nhạc công thể hiện khá thuần thục. Sau đó, Đoàn có hai đợt biểu diễn báo cáo Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cơ quan quản lý văn hóa, các nhà nghiên cứu cùng cán bộ, nhân dân Thủ đô một cách thành công, khẳng định và gợi ra một tầm nhìn đúng đắn về dân ca quan họ nói riêng, nghệ thuật truyền thống Việt Nam nói chung. Đó là năm 1974. Cũng từ đấy biết bao đoàn khách trong và ngoài nước đã về Bắc Ninh nghe hát dân ca quan họ và đặc biệt là tìm hiểu về hát canh trong quan họ. Cũng năm ấy là cái mốc đánh dấu sự hồi sinh của dân ca quan họ, bởi đó là năm người dân miền Bắc xem bộ phim “Đến hẹn lại lên” mà trong đó Thúy Cải đã có một vai diễn để đời. Cùng với việc đưa Đoàn đi biểu diễn phục vụ Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và khách quốc tế xem, quan họ Bắc Ninh đã thực sự “sống lại” như lời nhận xét của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Hoàng Minh Giám lúc bấy giờ.

Đã khẳng định mình thì phải gánh vác nhiệm vụ mới, năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Nam - Bắc sum họp một nhà, Đoàn chính thức nhận kế hoạch biểu diễn phục vụ nhân dân hằng năm. Những buổi biểu diễn phục vụ quân và dân, máy phát điện được cải tiến từ máy bơm nước Ba Lan, phương tiện vận chuyển thì bằng xe cải tiến, xe bò, người kéo, xe đạp cá nhân… Buổi đầu tiên tại bãi chiếu bóng đồi Lim, đúng là trời vui, đất vui, nhân dân vui - một môn nghệ thuật được đưa lên sân khấu hoàn toàn mới mẻ. Anh chị em trong Đoàn ai nấy đều phấp phỏng lo âu về cái “vạn sự khởi đầu nan” này. Trong tâm trạng đan xen vui mừng, lo âu khó ai đo đếm, các đồng chí lãnh đạo còn lo gấp bội. Nhưng rồi phấn khởi bất ngờ. Mới chập tối điểm bán vé vừa lên đèn mà khán giả đã từ các ngả đường ùn ùn kéo đến. Vé bán không kịp, người dồn vào bãi mỗi lúc một đông, cửa xé vé ùn tắc, xé vé không kịp, chen chúc, cản không xong, rồi vỡ òa tháo khoán... Với Thúy Cải, việc khán giả ủng hộ cho đêm diễn thành công là niềm hạnh phúc lớn nhất rồi.

Chuỗi ngày tươi sáng đang bừng chiếu thì đột nhiên xuất hiện nhiệm vụ mới. Thúy Cải và các nghệ sĩ lại hành quân lên biên giới phía bắc phục vụ các chiến sĩ đang ngày đêm chiến đấu bảo vệ biên cương Tổ quốc. Từng tốp, từng tốp hát “chay”, không có thiết bị, mưa rét vẫn hát. Mặc bom rơi, đạn nổ, tiếng hát, tiếng đàn của các nghệ sĩ vẫn nồng cháy, vút bay làm ấm lòng bao chiến sĩ. Những năm đầu của thập niên 80, nhiều chương trình thể nghiệm được dàn dựng như “Sự tích trầu cau”, “Đôi ngọc lưu ly”, “Chuyện tình Tiên Du”; các ca cảnh như “Khúc hát đảo xa”, “Khúc hát làng sông”. Các chương trình ca múa nhạc cùng với các chương trình quan họ truyền thống đã giới thiệu tới đông đảo khán giả trong và ngoài nước, đóng góp tích cực vào việc bảo tồn và lan tỏa di sản quan họ trong đời sống đương đại.

Vẫn đắm say trên con đường đã chọn

Nhiều người yêu quan họ đều nhận xét rằng nghe Thúy Cải hát một lần sẽ nhớ, nhớ rồi sẽ thích, thích rồi sẽ mê. Với bà, dù biểu diễn trên sân khấu đơn sơ nơi vùng sâu, vùng xa hay sân khấu sang trọng ở nước ngoài, dù biểu diễn cho những người dân lao động chân lấm tay bùn hay những chính khách thì cứ được hát quan họ là hạnh phúc biết bao. 50 năm trong nghề, ngoài giọng hát quan họ say đắm lòng người thì bà còn là vị lãnh đạo hết lòng vì công việc. 12 năm trên cương vị Trưởng đoàn Dân ca quan họ Bắc Ninh, Thúy Cải không chỉ nỗ lực để anh chị em trong Đoàn sống tốt bằng nghề mà còn cố gắng để quan họ đến được với nhiều vùng quê trong cả nước. Bà đã nhiều lần đi nói chuyện trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa ở các trường học để lớp trẻ hiểu và yêu quan họ cũng như văn hóa của người quan họ.

Có một công việc mà Nghệ sĩ Nhân dân Thúy Cải cũng rất miệt mài, tâm huyết, đó là giảng dạy tại các cơ sở đào tạo quan họ ở Bắc Ninh, Bắc Giang. Theo bà, một giọng hát quan họ hay thì phải vang, rền, nền, nảy, mà “nảy” trong quan họ rất quan trọng nhưng không phải ai cũng hát được. Muốn giọng hát “nảy” được thì thế hệ trẻ phải học hỏi rất nhiều, ngoài học trường lớp còn phải học các nghệ nhân ở các làng quan họ cổ cùng quá trình tập luyện kỳ công. Đặc biệt, bà rất quan tâm đến việc truyền tình yêu quan họ đến với các em nhỏ. Bởi theo bà, chính các em sẽ góp phần không nhỏ trong việc giữ gìn và bảo tồn văn hóa truyền thống của quê hương. Được biết, khoảng 10 năm trở lại đây, khi đã trở về quê nhà dưới chân núi Bất Lự (xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) sinh sống, cứ mỗi chủ nhật bà lại đứng lớp dạy các em nhỏ hát quan họ. Những giá trị của làn điệu dân ca truyền thống từ bao đời nay là không thể phủ nhận vì thế những lớp học truyền khẩu như vậy dường như là biện pháp tốt nhất để có thể truyền thụ một cách rõ ràng, hiệu quả nhất những tinh hoa truyền thống.

Với những đóng góp không ngừng nghỉ cho dân ca quan họ nói riêng, cho âm nhạc truyền thống nói chung, bà đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Nghệ sĩ Nhân dân vào năm 2015. Thế nhưng, trò chuyện với tôi hôm nay, trong một buổi chiều đông 2019, bà lại bảo rằng: Danh hiệu ấy là rất quý nhưng quan trọng và hạnh phúc hơn là đi đến đâu người ta cũng biết đến bà và mong muốn được trực tiếp nghe bà hát.

Đạt được những thành công trong ngày hôm nay, bà vẫn luôn tâm niệm nếu không có chồng con thì mình không làm được gì hết. Học cùng nhau ở Trường Văn hóa Nghệ thuật Hà Bắc rồi sau này công tác cùng Đoàn (chồng bà phụ trách âm thanh, ánh sáng), vợ chồng bà luôn kề vai sát cánh trong mọi hành trình. Ngoài làm việc ở Đoàn quan họ, bà còn tham gia HĐND tỉnh, là đại biểu Quốc hội khóa IX (1992-1997). Như vậy có nghĩa là công việc rất bận rộn, chồng bà đã tự nguyện lùi về phía sau, lo lắng, chăm sóc con cái, nhà cửa cho bà yên tâm công tác. Có lẽ vì vậy bà luôn cảm thấy may mắn vì có hậu phương vững chắc là gia đình. Vì thế, dù cho có những lúc thăng hoa trên sân khấu nhưng không bao giờ bà quên phép tắc gia phong và giữ gìn chính mình trong lề lối nghiêm ngặt của người quan họ. Bởi vậy, bà có một cuộc sống hạnh phúc, đầm ấm nhiều người mơ ước. Được biết, người con gái lớn của bà là chị Lê Ngọc Lương, hiện là Trưởng Phòng Nghệ thuật quần chúng, Trung tâm Văn hóa tỉnh Bắc Ninh, cũng đang tiếp nối người mẹ của mình để lan tỏa dân ca quan họ nói riêng và văn hóa nghệ thuật nói chung.

Đến bây giờ mặc dù đã nghỉ hưu, nhưng trong lòng bà vẫn còn canh cánh với ước mơ quan họ ngày nào. “Cái phải ghi nhớ đó là ai đã tạo ra và để lại cho người dân Bắc Ninh hôm nay nền văn hiến Kinh Bắc, trong đó có quan họ. Nhân dân biết trân trọng nền văn hiến của địa phương mà giữ gìn đến ngày nay, để Thúy Cải cùng bao nghệ sĩ khác được thừa hưởng hương thơm ấy, để rồi được vinh danh. 50 năm - nửa thế kỷ, dài mà ngắn. Dài ngắn đâu kể, mà là kể cái ta được thừa hưởng hương thơm của dân ca quan họ; ngược lại chúng ta tri ân được bao nhiêu cho sự trường tồn của dân ca quan họ, ấy mới là điều cần gắng sức. Các bạn trẻ hãy vì nghệ thuật mà lao động, sáng tạo để xứng đáng với những giá trị văn hóa quan họ mà người xưa để lại, xứng với miền quê văn hiến mà mình đã sinh ra. Nay thế hệ đi trước đang bước vào tuổi “thất thập cổ lai hi” muốn vương vấn với quan họ mà lực bất tòng tâm. Tương lai trên con đường gìn giữ và phát triển dân ca quan họ nhờ cậy cả vào thế hệ hôm nay. Những mong các bạn hãy đem loại hình nghệ thuật hát dân ca quan họ Bắc Ninh hòa vào cuộc sống bằng tâm huyết thực sự và tài năng sáng tạo của thời đại mới. Như vậy dân ca quan họ Bắc Ninh sẽ mãi mãi trường tồn và lan tỏa”, Nghệ sĩ Nhân dân Thúy Cải nghẹn ngào chia sẻ.

Kỳ lạ thay cuộc đời của một người nghệ sĩ với gần 70 năm tuổi đời, 35 tuổi đảng, 50 năm gắn bó, sắt son với quan họ nhưng nét duyên quan họ vẫn còn nguyên, cả thanh và sắc vẫn giữ được bền, chỉ chín chắn hơn, đằm thắm hơn và sâu nặng nghĩa tình hơn mà thôi. Có lẽ vì thế mà người bạn diễn suốt nửa thế kỷ của bà là Nghệ sĩ Ưu tú Quý Tráng từng nhận xét rằng: “Quan họ sinh ra để dành cho Thúy Cải như một bông hoa nguyên chất không cần cấy ghép”.

Bài và ảnh Ngô Đăng Khoa

Tin liên quan

Tin mới hơn

Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

LNV - Bờ Nam sông Cổ Chiên, một nhánh chính của sông Cửu Long thuộc tỉnh Vĩnh Long, từ lâu đã nổi tiếng với những lò gốm đỏ rực lửa. Trên mảnh đất sét nhiễm phèn nặng, những người phụ nữ cần mẫn ngày đêm nhào nặn từng thớ đất vô tri thành những sản phẩm gốm độc bản, vừa nuôi sống gia đình vừa giữ gìn hồn quê qua bao thế hệ.
Gìn giữ nghề truyền thống tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn

Gìn giữ nghề truyền thống tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn

LNV - Trong nhịp sống sôi động của kinh tế thị trường, không ít làng nghề truyền thống đứng trước nguy cơ bị lãng quên. Thế nhưng, nhờ sự đồng hành của cộng đồng, chính quyền địa phương và sự sáng tạo của người dân, nhiều nghề cổ truyền không chỉ được gìn giữ mà còn trở thành bệ phóng phát triển kinh tế, góp phần xây dựng nông thôn mới bền vững.
Gốm Việt Nam: Nhu cầu thị trường nội địa và những cơ hội phát triển đột phá

Gốm Việt Nam: Nhu cầu thị trường nội địa và những cơ hội phát triển đột phá

LNV - Nghệ thuật gốm đã in sâu vào bản sắc văn hóa Việt Nam từ hàng nghìn năm trước, là một phần không thể thiếu trong đời sống, tín ngưỡng và thẩm mỹ của người Việt. Từ những chiếc bình gốm Phùng Nguyên, trống đồng Đông Sơn cho đến những chiếc bình gốm hoa lam tinh xảo của Chu Đậu hay bát đĩa gốm Bát Tràng quen thuộc, gốm sứ không chỉ là vật dụng mà còn là biểu tượng của sự khéo léo, óc sáng tạo và tinh thần lao động bền bỉ của người Việt Nam.
Làng hoa Vạn Thành không ngừng đổi mới và hội nhâp

Làng hoa Vạn Thành không ngừng đổi mới và hội nhâp

LNV - Làng hoa Vạn Thành được hình thành từ những năm 50 của thế kỷ XX bởi người dân từ Hà Nam di cư vào Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Nhờ điều kiện khí hậu mát mẻ và đất đai màu mỡ, Làng hoa Vạn Thành đã phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong trung tâm sản xuất hoa lớn tại Đà Lạt.
Đắk Lắk: Phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm

Đắk Lắk: Phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm

LNV - Đắk Lắk phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm, mở rộng quy mô sản xuất, hướng đến việc kết hợp phát triển du lịch cộng đồng và trải nghiệm, giúp du khách có thể khám phá quy trình làm muối truyền thống.
Nuôi ong dưới tán rừng ngập mặn

Nuôi ong dưới tán rừng ngập mặn

LNV - Gắn bó với nghề nuôi ong đã gần 10 năm, bắt đầu từ vài chục tổ ong ban đầu, đến nay anh Trần Văn Sửu đã mở rộng lên khoảng 500 tổ, mỗi năm mang lại thu nhập ổn định khoảng 200 triệu đồng – con số không nhỏ đối với một hộ dân vùng ven biển.

Tin khác

Trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu ở Chợ nổi Cái Răng

Trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu ở Chợ nổi Cái Răng

LNV - Nhiều du khách trong và ngoài nước thích thú trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu tại chợ nổi Cái Răng.
Phát triển kinh tế làng nghề tạo đòn bẩy xây dựng nông thôn mới

Phát triển kinh tế làng nghề tạo đòn bẩy xây dựng nông thôn mới

LNV - Thành phố Hà Nội hiện có 1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó 337 nghề truyền thống đã được công nhận. Các làng nghề đã giúp nâng cao thu nhập, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động. Việc phát triển làng nghề không chỉ giữ gìn bản sắc truyền thống, mà còn tạo đòn bẩy trong xây dựng nông thôn mới.
15 cá nhân ở xã Bát Tràng được đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội

15 cá nhân ở xã Bát Tràng được đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội

LNV - Trong 2 ngày 9 và 10-9, Đoàn thẩm định của Hội đồng thành phố Hà Nội về xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ năm 2025 đã tổ chức thẩm định thực tế tại cơ sở các cá nhân có hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội năm 2025 tại xã Bát Tràng.
Ký ức Trung thu cổ "hồi sinh" bằng nghệ thuật giấy dó

Ký ức Trung thu cổ "hồi sinh" bằng nghệ thuật giấy dó

LNV - Trung thu không chỉ là Tết của thiếu nhi, mà còn là ký ức văn hóa của nhiều thế hệ người Việt. Khi đèn lồng nhựa và ánh sáng điện tử ngày càng phổ biến, những giá trị xưa dần phai nhạt. Triển lãm “Lãm” xuất hiện như một nhịp cầu, đưa con người trở về với mùa trăng cổ tích bằng những chiếc đèn giấy dó mộc mạc, bền vững và thấm đẫm hồn Việt.
Giữ hồn quê và nâng tầm kinh tế ở xã Bình Minh

Giữ hồn quê và nâng tầm kinh tế ở xã Bình Minh

LNV - Nằm ở phía Tây Nam Hà Nội, xã Bình Minh đang nổi lên như một điểm sáng về phát triển nông nghiệp sinh thái kết hợp với làng nghề truyền thống.
Làng nghề chế biến cá khô Gia Thuận: Giữ hồn truyền thống, mở hướng phát triển bền vững

Làng nghề chế biến cá khô Gia Thuận: Giữ hồn truyền thống, mở hướng phát triển bền vững

LNV - Tại xã Gia Thuận, tỉnh Đồng Tháp, bên cạnh những cánh đồng lúa xanh bát ngát và những chuyến tàu đánh bắt hải sản tất bật, làng nghề chế biến cá khô đã hình thành và phát triển từ nhiều năm nay, trở thành một trong những ngành nghề mũi nhọn góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương. Không chỉ là nét văn hóa truyền thống, nghề chế biến cá khô còn đang mở ra những cơ hội mới về việc làm, nâng cao thu nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng.
Giữ hồn núi rừng qua đôi tay già làng Cơ Tu

Giữ hồn núi rừng qua đôi tay già làng Cơ Tu

LNV - Trong ngôi nhà sàn ba gian giữa núi rừng, già Bhling Bloó (70 tuổi, thôn Bhơ Hôồng, xã Sông Kôn, TP Đà Nẵng) vẫn cần mẫn bên bó tre, mây. Với ông, đan lát không chỉ là kế sinh nhai mà còn là cách để giữ lấy “cái gốc” của người Cơ Tu giữa nhịp sống hiện đại.
Giọt mắm Nam Ô và câu chuyện từ làng biển trăm năm tuổi

Giọt mắm Nam Ô và câu chuyện từ làng biển trăm năm tuổi

LNV - Giữa nhịp sống hiện đại của thành phố biển Đà Nẵng, làng cổ Nam Ô vẫn lặng lẽ giữ trong mình những giá trị văn hóa và nghề truyền thống hơn 700 năm tuổi. Nơi đây không chỉ nổi tiếng với cảnh quan thiên nhiên đặc sắc, những dấu tích lịch sử gắn với công chúa Huyền Trân, mà còn được biết đến là cái nôi của nghề làm nước mắm – một di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, niềm tự hào của cư dân miền biển.
Khát vọng phát triển từ làng nghề truyền thống đến trung tâm công nghiệp

Khát vọng phát triển từ làng nghề truyền thống đến trung tâm công nghiệp

LNV - Trong bối cảnh đô thị hóa và hội nhập, Tây Phương đang từng bước đổi mới, phát huy thế mạnh làng nghề gắn với phát triển du lịch, đồng thời mở rộng không gian công nghiệp và dịch vụ, hướng tới trở thành một trung tâm kinh tế - văn hóa quan trọng của Thủ đô.
Giữ hồn làng nghề bánh đa nem trăm năm tuổi ở Thổ Hà

Giữ hồn làng nghề bánh đa nem trăm năm tuổi ở Thổ Hà

LNV - Nằm ven sông Cầu hiền hòa, làng Thổ Hà (phường Vân Hà, tỉnh Bắc Ninh) từ lâu đã nổi tiếng khắp trong và ngoài nước với nghề làm bánh đa nem. Nghề đã tồn tại hàng trăm năm, trở thành nét văn hóa đặc trưng và là niềm tự hào của người dân địa phương.
Sức sống mới cho thủ công mỹ nghệ Thủ đô từ thị trường nội địa

Sức sống mới cho thủ công mỹ nghệ Thủ đô từ thị trường nội địa

LNV - Thủ công mỹ nghệ từ lâu được coi là một trong những ngành nghề truyền thống đặc sắc nhất của Thủ đô Hà Nội. Không chỉ mang đậm giá trị văn hóa, lịch sử, sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn góp phần quan trọng trong cơ cấu kinh tế nông thôn và xuất khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường quốc tế nhiều biến động, nhu cầu tiêu dùng trong nước đang trở thành một “nguồn lực mềm” mạnh mẽ, mở ra sức sống mới cho ngành thủ công mỹ nghệ Thủ đô.
An Giang: Nơi tiếng búa vang vọng cả đời người

An Giang: Nơi tiếng búa vang vọng cả đời người

LNV - Suốt hàng chục năm qua, nghề chẻ đá tại ấp Hòn Sóc, xã Hòn Đất vẫn được người dân nơi đây duy trì như một phần không thể thiếu trong cuộc sống mưu sinh. Mỗi buổi sáng, cả bãi đá rộng lớn vang lên âm thanh đặc trưng của làng nghề: tiếng máy cắt xèng xèng, tiếng búa tạ nện vào nêm thép cắc cắc, hòa quyện thành nhịp điệu lao động cần cù.
Bánh gio - món ăn truyền thống của người Tày

Bánh gio - món ăn truyền thống của người Tày

LNV - Giữa đại ngàn xanh thẳm của vùng cao Đông Bắc, người Tày vẫn gìn giữ một món bánh giản dị nhưng đậm đà bản sắc – bánh gio. Bánh được làm từ gạo nếp thơm ngâm nước tro vỏ cây, gói trong lá chít và nấu bằng lửa nhỏ. Bánh gio mang hương vị thanh mát, mộc mạc, gắn liền với ký ức mỗi mùa Tết, ngày rằm. Giữa vòng xoay hiện đại, bánh gio vẫn giữ nguyên hương vị truyền thống như cách người Tày gìn giữ bản sắc dân tộc mình một cách tự nhiên, bền bỉ và đầy tự hào.
Nâng tầm đặc sản quê hương

Nâng tầm đặc sản quê hương

LNV - Với khát vọng nâng tầm giá trị đặc sản quê hương từ nguồn nguyên liệu có sẵn, nhiều hộ gia đình đã tạo nên các sản phẩm độc đáo.
Lưu giữ giá trị văn hóa làng nghề mộc Chợ Thủ

Lưu giữ giá trị văn hóa làng nghề mộc Chợ Thủ

LNV - Khi nhắc đến đồ gỗ mỹ nghệ truyền thống là ai cũng biết làng nghề mộc Chợ Thủ ở tỉnh An Giang. Làng nghề mộc Chợ Thủ từ lâu đã trở thành một thương hiệu đồ gỗ uy tín trên thị trường.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Bà Rịa – Vũng Tàu: Khuyến công tạo động lực cho phát triển công nghiệp bền vững

Bà Rịa – Vũng Tàu: Khuyến công tạo động lực cho phát triển công nghiệp bền vững

LNV - Khuyến công gắn với định hướng phát triển kinh tế – xã hội Trong nhiệm kỳ 2020 – 2025, Bà Rịa – Vũng Tàu xác định công nghiệp là trụ cột chủ lực, chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế của tỉnh. Để hiện thực hóa mục tiêu chuyển dịch cơ cấu từ khai khoáng san
Trường THCS Nguyễn Trường Tộ- Điểm sáng của ngành giáo dục Thủ đô

Trường THCS Nguyễn Trường Tộ- Điểm sáng của ngành giáo dục Thủ đô

LNV - Trường THCS Nguyễn Trường Tộ là ngôi trường thuộc TOP trường THCS chất lượng tốt ở Hà Nội. Để đạt được những thành tích đáng tự hào ấy, Trường THCS Nguyễn Trường Tộ luôn chú trọng đổi mới việc dạy và học với phương châm ”Lấy học sinh làm trung tâm”,
Nâng tầm Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc

Nâng tầm Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc

LNV - Những ngày này, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Hải Phòng đang tất bật chuẩn bị cho Lễ hội mùa thu Côn Sơn - Kiếp Bạc. Năm nay, lễ hội mang ý nghĩa đặc biệt hơn khi Đền Kiếp Bạc và Chùa Côn Sơn nằm trong quần thể di tích, danh thắng được UNESCO côn
Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

LNV - Bờ Nam sông Cổ Chiên, một nhánh chính của sông Cửu Long thuộc tỉnh Vĩnh Long, từ lâu đã nổi tiếng với những lò gốm đỏ rực lửa. Trên mảnh đất sét nhiễm phèn nặng, những người phụ nữ cần mẫn ngày đêm nhào nặn từng thớ đất vô tri thành những sản phẩm g
Trám đen Hoàng Vân – “vàng đen” trên đất Bắc Ninh

Trám đen Hoàng Vân – “vàng đen” trên đất Bắc Ninh

LNV - Nằm ở vùng trung du giàu truyền thống cách mạng, xã Hoàng Vân (huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Ninh) không chỉ được biết đến bởi những dấu ấn lịch sử, mà còn nổi bật với một loại cây đặc sản mang lại giá trị kinh tế cao: trám đen. Cứ vào độ cuối tháng 6 đế
Giao diện di động