Bình Định: Làng nghề nón ngựa Phú Gia
Sản phẩm văn hóa miền đất võ
Chính những nghệ nhân làm nên nón ngựa Phú Gia cũng thấy hứng khởi trước vẻ đẹp của chiếc nón họ làm ra. Toàn xã hiện có khoảng 320 hộ với trên 700 lao động làm nón. Theo bà con làng nghề, vài năm gần đây nón ngựa tiêu thụ khá mạnh, nhưng phần lớn làm theo đơn đặt hàng, chủ yếu là nón lật, bởi chiếc nón ngựa truyền thống đòi hỏi làm rất công phu, giá thành cao, giá bán lên đến 400 - 500 ngàn đồng/chiếc. Còn chiếc nón lật thì làm đơn giản hơn nên giá chỉ từ 80 đến 150 ngàn đồng/chiếc; nón ngựa du lịch giá khoảng 40 - 50 ngàn đồng/chiếc. Thu nhập từ nghề này sau khi trừ chi phí khoảng 60 - 80 ngàn đồng/ người/ngày công.
Bà Trần Thị Kéo, một nghệ nhân làm nón ngựa ở thôn Phú Gia, xã Cát Tường kể: “Tôi làm nghề này cùng với cha mẹ từ hồi 15 tuổi tới bây giờ, hiện nay tôi đã 82 tuổi và tiếp tục truyền nghề cho con cháu. Tuy thu nhập không đáng là bao, nhưng phải gìn giữ nghề truyền thống của cha ông để lại, khỏi mai một sau này”.
Thời xưa, nón ngựa chỉ dành riêng cho giới thượng lưu, quyền quý. Với những mẫu hoa văn như long, lân, quy, phụng, thể hiện quyền uy trong thời đại phong kiến. Những người có chức sắc khác nhau, các mẫu họa tiết sẽ được thêu khác nhau. Trông vào đó mà ta có thể biết được phẩm hàm của vịquan trong địa phương. Từ xã trưởng trở lên mới có chụp bằng đồng hay bạc chạm trổ theo phẩm trật, trên đỉnh là núm hình quả trám nhọn hoắt. Đặc biệt, giới phong lưu thường chuộng mẫu hoa văn như mai, lan, cúc, trúc vì nó là biểu tượng của sự thanh tao, đài các, thể hiện được sự luân chuyển của thời tiết bốn mùa. Cũng chính nhờ có những mẫu họa tiết này mà khi đội trên đầu, nón ngựa Phú Gia vừa có nét cao sang quý phái, vừa gợi sự trang nhã, mềm mại, trở thành nét đặc trưng không lẫn vào đâu được.
Nghệ nhân Đỗ Văn Lan đang hoàn tất công đoạn cuối nón ngựa.
Nghệ nhân Đỗ Văn Lan ở thôn Phú Gia đã ngoài bảy mươi nhưng ông đã có đến 58 năm gắn bó với nghề làm nón ngựa. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống 4 đời làm nón, rồi bén duyên với nghề này từ thời niên thiếu. Hồi đó, thấy ông nội, cha mẹ ngày ngày cần mẫn bên những chiếc nón, ông cũng bắt đầu theo học làm. Nhờ đôi bàn tay khéo léo tài hoa cùng với niềm đam mê, ông đã nhanh chóng trở thành nghệ nhân xuất sắc trong nghề làm nón ngựa Phú Gia. Ông Lan, tâm sự: “Cụtôi làm tri phủ nên mới được đội chiếc nón ngựa. Cho tới nay đã 170 năm qua, gia đình tôi đã gìn giữ vật gia bảo này. Tôi là đời thứ 4, tiếp tục bảo quản, đồng thời phát triển và truyền nghề cho thế hệ con cháu”.
Tìm hiểu về làng nghề truyền thống, làng nón ngựa thôn Phú Gia mới thấy những nét đặc trưng của nghề này không chỉ dừng lại ở bề dày về thời gian mà vượt lên trên tất cả. Chiếc nón ngựa sản phẩm của làng còn gắn với nét văn hóa độc đáo một thời. Chỉ ở góc độ lý giải vì sao nón ngựa ở thôn Phú Gia có tên là nón ngựa, cũng đủ hấp dẫn khách du lịch gần xa. Theo các nghệ nhân, trước đây nón này chỉ dành riêng cho các “quan lại” đội, mà quan thường đi ngựa nên có tên gọi là nón ngựa.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nón ngựa ở thôn Phú Gia không chỉ để đội đầu mà trở thành hàng thủ công mỹ nghệ rất độc đáo và thú vị. Làm nón ngựa rất lắm công phu phải trải qua 3 công đoạn. Đó là làm mê sườn, đan sườn mê và chằm nón. Mỗi công đoạn có một thôn, một xóm làm riêng theo hình thức chuyên môn hóa. Còn thôn Phú Gia, Xuân Quang chủ yếu là mua sườn mê về làm ra nón thành phẩm.
Mê sườn được chẻ nhỏ ra như những cây tăm và chuốt nhẵn đều, tiếp đến là đan mê. Bước tiếp theo là đặt mê sườn lên khung nón và cuối cùng là đặt lá cọ lên trên mê sườn, tiến hành chằm nón. Song điều lưu ý, là bên trong nón được trang trí nhiều hoa văn rất đẹp mắt như: rồng phụng, bông hoa. Việc này chỉ có người lớn tuổi mới làm được.
Định hướng phát triển
Thời gian gần đây, những du khách đến tham quan làng nghề rất mê chiếc nón ngựa, nhất là khi UBND tỉnh Bình Định tổ chức các sự kiện quan trọng; nhiều du khách nước ngoài tìm đến tham quan và đặt mua sản phẩm.
Tuy thu nhập không bằng những ngành nghề khác, nhưng nghề làm nón ngựa đã giải quyết được lao động lúc nông nhàn và tạo việc làm cho nhiều thế hệ: già, trẻ, phụ nữ v.v… Song quan trọng nhất là duy trì và phát triển làng nghề truyền thống này trở thành làng văn hóa du lịch theo đúng nghĩa của nó, cần có sự quan tâm đầu tư về nhiều mặt của các cấp - các ngành.
Ở Cát Tường, doanh thu mỗi năm từ các làng nghề chiếm 44% tổng thu nhập của địa phương. Có nhiều hộ làm các nghề truyền thống đã xây dựng được nhà cửa khang trang, nhiều hộ nghèo đã vươn lên ổn định cuộc sống. Làng nghề ở Cát Tường đã góp phần rất lớn trong giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Nhờ phát triển làng nghề truyền thống, nhiều hộ gia đình có thêm thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo. Song do sản xuất với quy mô nhỏ lẻ, hộ gia đình, nên các làng nghề ở Cát Tường chưa tạo được thương hiệu nên chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh một số thuận lợi, các làng nghề cũng còn nhiều hạn chế như: Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, thiếu vốn để đầu tư đổi mới thiết bị dẫn đến năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, mẫu mã đơn điệu, giá thành lại cao, nên không đủ sức cạnh tranh. Thêm vào đó, quy trình sản xuất thiếu đồng bộ, chưa có sản phẩm mũi nhọn, thị trường tiêu thụ hạn hẹp; số lao động có tay nghề cao còn quá ít. Với tập quán sản xuất cũ nên hoạt động của làng nghề chủ yếu ở quy mô hộ gia đình và mặt bằng sản xuất chật hẹp.
Ông Nguyễn Kế Sinh, Phó chủ tịch UBND xã Cát Tường cho biết định hướng phát triển làng nghề: “Để phát triển các làng nghề truyền thống ở địa phương, trong đó có làng nón ngựa, chúng tôi đã lập nhiều dự án vay vốn ưu đãi của Nhà nước để giúp cho bà con có thêm nguồn vốn mở rộng quy mô sản xuất; bước đầu bà con rất phấn khởi và nhận thấy rằng việc đầu tư phát triển, khuyến khích xây dựng các làng nghề truyền thống là một việc làm đúng hướng”.
Bài và ảnh Thế Hà
Tin liên quan
Tin mới hơn

Làn gió mới cho vùng chè Thái Nguyên
11:01 | 04/07/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Chuẩn bị cho Festival Quốc tế 2025: Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống
12:15 | 03/07/2025 Làng nghề, nghệ nhân

"Gieo mầm số" cho đất nghề Phú Xuyên
09:31 | 03/07/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Gìn giữ và phát huy nghề truyền thống của đồng bào Hrê ở huyện Ba Tơ
14:07 | 02/07/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Mùa sen ở hồ Tây
11:48 | 02/07/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Nghề Đúc Đồng Đại Bái: Tinh Hoa Văn Hóa Bắc Ninh
14:01 | 01/07/2025 Làng nghề, nghệ nhân
Tin khác

Đưa sản phẩm làng nghề lên sách, tăng cơ hội xuất khẩu
10:30 | 30/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Bảo tồn văn hóa làng nghề qua sản phẩm OCOP của Hà Nội
10:30 | 30/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Gia Lâm: Địa danh “Dương Xá” được bảo hộ nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm nông sản chế biến
10:24 | 26/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Gìn giữ tinh hoa làng nghề xứ Quảng
11:03 | 25/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Chuyện của “Vua gỗ lũa Trai Vàng”
11:02 | 25/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Nghệ nhân sinh vật cảnh năng động, sáng tạo
11:02 | 25/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Làng nghề xứ Thanh – Nơi kết tinh tinh hoa văn hóa cha ông
10:49 | 23/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Giữ lửa nghề bánh tráng Thuận Hưng
10:21 | 23/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt
10:08 | 23/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Làng nghề dệt lanh Lùng Tám – Nét văn hóa Mông trên Cao nguyên đá
09:01 | 19/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Nghệ nhân “hồi sinh” các con giống bột cổ
11:09 | 18/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Phú Yên công nhận 11 nghề truyền thống năm 2025
15:44 | 13/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Người âm thầm dùng cây kim, sợi chỉ lưu giữ hồn cốt văn hóa Việt
15:42 | 13/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Văn hoá Bắc Bộ qua các làng nghề truyền thống nổi tiếng ở Hà Nội
15:41 | 13/06/2025 Làng nghề, nghệ nhân

Chủ tịch nước Lương Cường gặp mặt nghệ nhân làng nghề tiêu biểu toàn quốc
13:19 | 12/06/2025 Tin tức

Khi Đạo giáo trở thành điểm tựa tinh thần trong biến động lịch sử Việt Nam
11:14 Văn hóa - Xã hội

Dấu ấn văn hóa đặc sắc trong dòng chảy tín ngưỡng Việt Nam
11:14 Văn hóa - Xã hội

Quán Đạo giáo - Di sản tôn giáo độc đáo cần được bảo tồn đúng giá trị
11:13 Văn hóa - Xã hội

Hiến pháp sửa đổi năm 2025: Nền tảng pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước
11:12 Tin tức

Cả nước đã có 16.543 sản phẩm OCOP
14:57 OCOP