Hà Nội: 26°C Hà Nội
Đà Nẵng: 26°C Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 25°C TP Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế: 24°C Thừa Thiên Huế

Tự hào hai tiếng “Việt Nam”

LNV - Chính thức trở thành quốc hiệu nước ta từ cách đây hơn 2 thế kỷ, hai tiếng “Việt Nam” ngày nay đã được sử dụng phổ biến, trở nên thiêng liêng, tự hào và gần gũi. Tuy nhiên, nguồn gốc, ý nghĩa và nhất là quá trình hình thành quốc hiệu đó vẫn là những vấn đề lý thú, được nhiều người quan tâm.
Tự hào hai tiếng “Việt Nam”
Cột cờ Hà Nội

Nhiều kết quả nghiên cứu thường khẳng định quốc hiệu Việt Nam xuất hiện từ đầu thời Nguyễn, bởi chính sử của nước ta và Trung Quốc đều ghi nhận cụ thể việc này. Năm 1802, sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh (vua Gia Long) phái hai đoàn sứ giả sang Trung Quốc. Một đoàn do Thượng thư bộ Hộ là Trịnh Hoài Đức làm Chánh sứ, đem trao trả lại sách ấn mà triều Thanh phong cho nhà Tây Sơn. Đoàn kia do Thượng thư bộ Binh là Lê Quang Định làm Chánh sứ, đề cập việc phong vương cho Nguyễn Ánh và đặt quốc hiệu là Nam Việt. Lời quốc thư của Nguyễn Ánh có đoạn: "... Mấy đời trước mở đất viên giao càng ngày càng rộng, gồm cả nước Việt Thường và nước Chân Lạp, đặt quốc hiệu là Nam Việt, truyền nối hơn hai trăm năm. Nay tôi lấy hết cõi Nam, có toàn miền đất Việt, nên theo hiệu cũ để chính quốc danh...".

Cũng năm 1802, nhà Thanh công nhận danh xưng quốc hiệu nước ta là Việt Nam. Nhưng đến năm Gia Long thứ 3 (năm 1804), sứ giả nhà Thanh là Tề Bố Sâm mới mang cáo sắc, quốc ấn đến Thăng Long làm lễ phong vương cho Nguyễn Ánh. Như vậy, phải đến năm 1804 quốc hiệu Việt Nam mới được chính thức thừa nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao.

Trong cuốn "Nước Đại Việt Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa", tác giả người Nhật Bản Yoshiharu Tsuboi khẳng định: "Năm 1803, có những cuộc thương thảo rất quan trọng về quốc hiệu dưới triều Nguyễn: Nam Việt hay Việt Nam". Sở dĩ nhà Thanh muốn sửa "Nam Việt" thành "Việt Nam" là vì hai lý do. Thứ nhất, trong lịch sử Trung Quốc từng có Triệu Đà nổi dậy cát cứ, lập ra nước Nam Việt, tự xưng là Hoàng đế; các triều đại trung ương ở Trung Quốc đều không thừa nhận nước Nam Việt. Nhà Thanh cũng vậy và không muốn bị gợi lại quá khứ ấy. Thứ hai, Nam Việt - theo cách hiểu truyền thống - có thể gồm cả nước ta và các xứ Việt Đông, Việt Tây (tức Quảng Đông, Quảng Tây) của Trung Quốc, nên nếu đặt làm quốc hiệu nước ta, sau này sẽ gây rắc rối về mặt lãnh thổ. Quốc thư phúc đáp của hoàng đế nhà Thanh đã tế nhị trình bày lý do đó và khéo léo chuẩn danh xưng quốc hiệu nước ta là Việt Nam: "... Lúc trước có đất Việt Thường đã xưng là nước Nam Việt, nay có cả đất An Nam, xét ra cho kỹ, thì nên gộp cả đất đai trước sau mà đặt danh hiệu tốt. Vậy, định lấy chữ Việt để trên, tỏ việc giữ đất cũ mà nối nghiệp trước; lấy chữ Nam đặt dưới, tỏ việc mở cõi Nam giao mà chịu quyền mệnh mới. Như thế thì danh xưng chính đại, nghĩa chữ tốt lành, so với hai đất Việt nước Tàu khác nhau xa lắm...".

Thực ra, không phải đến tận đầu thời Nguyễn mà tên gọi Việt Nam được biết đến ít nhất từ thế kỷ XIV, trong nhiều thư tịch đương thời như "Việt Nam thế chí” của Hồ Tông Thốc, "Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, "Trình tiên sinh quốc ngữ văn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm, "Vân đài loại ngữ" của Lê Quý Đôn, "Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú... Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải sưu tầm được các văn bia (niên đại đều trước thế kỷ XVIII) có khắc tên gọi Việt Nam như bia chùa Bảo Lâm (Chí Linh, Hải Dương, có từ năm 1558), bia chùa Cam Lộ (Phú Xuyên, Hà Nội - 1590), bia chùa Phúc Thánh (Quế Võ, Bắc Ninh - 1664), bia Thủy Môn Đình (Đồng Đăng, Cao Lộc, Lạng Sơn - 1670), trong đó bia chùa Bảo Lâm và Thủy Môn Đình đã bị thất lạc, chỉ còn bản dập tại Viện Nghiên cứu Hán - Nôm. Tên gọi Việt Nam có lẽ mang ý nghĩa kết hợp nòi giống và vị trí cư trú địa lý của dân tộc ta (Việt Nam - nước của người Việt ở phía Nam), thể hiện tinh thần tự tôn, độc lập và phủ nhận sự áp đặt, miệt thị của người Trung Quốc. Tuy nhiên, tên gọi này chưa trở thành quốc hiệu vì chưa được các triều đại phong kiến nước ta tuyên bố hoặc ghi nhận bằng văn bản pháp luật.

Tên gọi Việt Nam lần đầu tiên chính thức trở thành quốc hiệu nước ta vào năm 1792 chứ không phải vào đầu thời Nguyễn. Nó được xác lập bởi một văn bản pháp lý quan trọng (chiếu) của Nhà nước Tây Sơn, niên hiệu Quang Trung thứ 5, và đã được thông báo cho nhà Thanh (Trung Quốc). Trong "Dụ Am văn tập" của Phan Huy Ích có chép nguyên bản bài "Tuyên cáo về việc đặt quốc hiệu mới" của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) vào mùa xuân năm Nhâm Tý 1792, nội dung có đoạn như sau:

"... Trẫm nối nghiệp xưa, gây dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, trẫm xét núi sông nên đặt tên tốt để truyền lâu dài... Ban đổi tên An Nam làm nước Việt Nam, đã tư sang Trung Quốc biết rõ...". Tuy nhiên, triều Tây Sơn tồn tại khá ngắn, lại gặp nhiều phức tạp nội bộ nên quốc hiệu Việt Nam chưa được dùng phổ biến. Đến nay cũng chưa tìm thấy sử liệu đáng kể nào nói về phản ứng của các nước (nhất là nhà Thanh - Trung Quốc) với việc đổi quốc hiệu này.

Trong lịch sử nước ta, có một hiện tượng thú vị là quốc hiệu và tên gọi đất nước thường không thống nhất. Chẳng hạn, năm 1054, nhà Lý đổi quốc hiệu là Đại Việt, quốc hiệu đó liên tục tồn tại đến hết đời Trần (1400), thế nhưng chiếu nhường ngôi của Lý Chiêu Hoàng cho Trần Cảnh (ngày 10-1-1226) lại mở đầu bằng câu: "Nước Nam Việt ta từ lâu đã có các đế vương trị vì”. Nhà Hồ (1400 - 1407) đổi quốc hiệu là Đại Ngu (sự yên vui lớn), nhưng đa số dân chúng vẫn gọi Đại Việt, còn người Trung Quốc gọi Giao Chỉ. Thế kỷ XV, trong "Dư địa chí”, Nguyễn Trãi có viết: "Vua đầu tiên là Kinh Dương Vương, sinh ra có đức của bậc thánh nhân, được phong sang Việt Nam làm tổ Bách Việt", nhưng trong "Bình Ngô đại cáo" ông lại viết: "Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu". Đến đời Gia Long (trị vì năm 1802 - 1820), dù đã chính thức có quốc hiệu là Việt Nam nhưng một bộ phận dân chúng vẫn quen gọi Đại Việt, còn người Trung Quốc và phương Tây thường gọi là An Nam.

Sau khi lên nối ngôi vua Gia Long, vua Minh Mạng cho đổi quốc hiệu là Đại Nam (cuối năm 1838), cái tên Việt Nam không còn thông dụng như trước nữa. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng Việt Nam được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và chí sĩ yêu nước, trong nhiều tác phẩm và tên tổ chức chính trị: Phan Bội Châu viết "Việt Nam vong quốc sử" (năm 1905) rồi cùng Cường Để thành lập Việt Nam Công hiến hội (1908), Việt Nam Quang phục hội (1912); Phan Châu Trinh viết "Pháp - Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam" (1914), Trần Trọng Kim viết "Việt Nam sử lược" (1919); Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội (1925) và Việt Nam Độc lập Đồng minh hội (1941)...

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, trao chính quyền hình thức cho Bảo Đại. Vua Bảo Đại đổi lại quốc hiệu từ Đại Nam thành Việt Nam. Ngày 19-8-1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, vua Bảo Đại thoái vị. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc "Tuyên ngôn Độc lập" khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiến pháp năm 1946 chính thức thể chế hóa danh hiệu này. Từ đây, quốc hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến, với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất của nó.

Quốc Huy

Tin liên quan

Tin mới hơn

Thanh Hóa thúc đẩy bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

Thanh Hóa thúc đẩy bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống

LNV - Thanh Hóa từ lâu đã nổi tiếng với nhiều làng nghề gắn bó mật thiết với đời sống, văn hóa và lịch sử. Trước thách thức của cơ chế thị trường, các làng nghề nơi đây đang khoác lên mình sức sống mới, vừa bảo tồn bản sắc, vừa tìm đường phát triển bền vững.
Hơn 300 năm giữ lửa truyền thống ở làng nghề chiếu cói Hoài Nhơn

Hơn 300 năm giữ lửa truyền thống ở làng nghề chiếu cói Hoài Nhơn

LNV - Làng nghề chiếu cói Hoài Nhơn (phường Hoài Nhơn Bắc, tỉnh Gia Lai) có lịch sử hình thành và phát triển hơn 300 năm, gắn liền với truyền thống văn hóa của vùng đất Bình Định xưa. Từ đôi bàn tay khéo léo của bao thế hệ, những tấm chiếu cói mộc mạc đã trở thành sản phẩm đặc trưng, lan tỏa khắp các vùng miền trong cả nước, đặc biệt là Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Làng gốm Bát Tràng kết nối di sản và hội nhập quốc tế

Làng gốm Bát Tràng kết nối di sản và hội nhập quốc tế

LNV - Xã Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội) – “thủ phủ” gốm sứ của cả nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới khi mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Với lợi thế truyền thống nghề gốm hàng trăm năm, địa phương đã và đang triển khai nhiều giải pháp nhằm phát triển làng nghề gắn với du lịch, nâng cao thu nhập cho người dân và khẳng định vị thế thương hiệu gốm Bát Tràng trên bản đồ thủ công mỹ nghệ thế giới.
Nghệ nhân Nguyễn Hữu Kiêm - Người giữ hồn diều sáo làng Bá

Nghệ nhân Nguyễn Hữu Kiêm - Người giữ hồn diều sáo làng Bá

LNV - Sinh ra và lớn lên trong cái nôi văn hóa dân gian của làng Bá Dương (nay thuộc xã Ô Diên, TP. Hà Nội), nghệ nhân nhân dân Nguyễn Hữu Kiêm đã dành cả cuộc đời để gìn giữ và lan tỏa nét đẹp diều sáo truyền thống. Từ những cánh diều tuổi thơ, ông đã đưa tình yêu ấy bay cao, bay xa đến với bạn bè khắp mọi nơi.
Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

Những đôi tay giữ lửa ở làng gốm đỏ bên bờ sông Cửu Long

LNV - Bờ Nam sông Cổ Chiên, một nhánh chính của sông Cửu Long thuộc tỉnh Vĩnh Long, từ lâu đã nổi tiếng với những lò gốm đỏ rực lửa. Trên mảnh đất sét nhiễm phèn nặng, những người phụ nữ cần mẫn ngày đêm nhào nặn từng thớ đất vô tri thành những sản phẩm gốm độc bản, vừa nuôi sống gia đình vừa giữ gìn hồn quê qua bao thế hệ.
Gìn giữ nghề truyền thống tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn

Gìn giữ nghề truyền thống tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn

LNV - Trong nhịp sống sôi động của kinh tế thị trường, không ít làng nghề truyền thống đứng trước nguy cơ bị lãng quên. Thế nhưng, nhờ sự đồng hành của cộng đồng, chính quyền địa phương và sự sáng tạo của người dân, nhiều nghề cổ truyền không chỉ được gìn giữ mà còn trở thành bệ phóng phát triển kinh tế, góp phần xây dựng nông thôn mới bền vững.

Tin khác

Gốm Việt Nam: Nhu cầu thị trường nội địa và những cơ hội phát triển đột phá

Gốm Việt Nam: Nhu cầu thị trường nội địa và những cơ hội phát triển đột phá

LNV - Nghệ thuật gốm đã in sâu vào bản sắc văn hóa Việt Nam từ hàng nghìn năm trước, là một phần không thể thiếu trong đời sống, tín ngưỡng và thẩm mỹ của người Việt. Từ những chiếc bình gốm Phùng Nguyên, trống đồng Đông Sơn cho đến những chiếc bình gốm hoa lam tinh xảo của Chu Đậu hay bát đĩa gốm Bát Tràng quen thuộc, gốm sứ không chỉ là vật dụng mà còn là biểu tượng của sự khéo léo, óc sáng tạo và tinh thần lao động bền bỉ của người Việt Nam.
Làng hoa Vạn Thành không ngừng đổi mới và hội nhâp

Làng hoa Vạn Thành không ngừng đổi mới và hội nhâp

LNV - Làng hoa Vạn Thành được hình thành từ những năm 50 của thế kỷ XX bởi người dân từ Hà Nam di cư vào Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Nhờ điều kiện khí hậu mát mẻ và đất đai màu mỡ, Làng hoa Vạn Thành đã phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong trung tâm sản xuất hoa lớn tại Đà Lạt.
Đắk Lắk: Phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm

Đắk Lắk: Phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm

LNV - Đắk Lắk phát triển thương hiệu muối Tuyết Diêm, mở rộng quy mô sản xuất, hướng đến việc kết hợp phát triển du lịch cộng đồng và trải nghiệm, giúp du khách có thể khám phá quy trình làm muối truyền thống.
Nuôi ong dưới tán rừng ngập mặn

Nuôi ong dưới tán rừng ngập mặn

LNV - Gắn bó với nghề nuôi ong đã gần 10 năm, bắt đầu từ vài chục tổ ong ban đầu, đến nay anh Trần Văn Sửu đã mở rộng lên khoảng 500 tổ, mỗi năm mang lại thu nhập ổn định khoảng 200 triệu đồng – con số không nhỏ đối với một hộ dân vùng ven biển.
Trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu ở Chợ nổi Cái Răng

Trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu ở Chợ nổi Cái Răng

LNV - Nhiều du khách trong và ngoài nước thích thú trải nghiệm làm hủ tiếu đa sắc màu tại chợ nổi Cái Răng.
Phát triển kinh tế làng nghề tạo đòn bẩy xây dựng nông thôn mới

Phát triển kinh tế làng nghề tạo đòn bẩy xây dựng nông thôn mới

LNV - Thành phố Hà Nội hiện có 1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó 337 nghề truyền thống đã được công nhận. Các làng nghề đã giúp nâng cao thu nhập, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động. Việc phát triển làng nghề không chỉ giữ gìn bản sắc truyền thống, mà còn tạo đòn bẩy trong xây dựng nông thôn mới.
15 cá nhân ở xã Bát Tràng được đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội

15 cá nhân ở xã Bát Tràng được đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội

LNV - Trong 2 ngày 9 và 10-9, Đoàn thẩm định của Hội đồng thành phố Hà Nội về xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ năm 2025 đã tổ chức thẩm định thực tế tại cơ sở các cá nhân có hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu nghệ nhân Hà Nội năm 2025 tại xã Bát Tràng.
Ký ức Trung thu cổ "hồi sinh" bằng nghệ thuật giấy dó

Ký ức Trung thu cổ "hồi sinh" bằng nghệ thuật giấy dó

LNV - Trung thu không chỉ là Tết của thiếu nhi, mà còn là ký ức văn hóa của nhiều thế hệ người Việt. Khi đèn lồng nhựa và ánh sáng điện tử ngày càng phổ biến, những giá trị xưa dần phai nhạt. Triển lãm “Lãm” xuất hiện như một nhịp cầu, đưa con người trở về với mùa trăng cổ tích bằng những chiếc đèn giấy dó mộc mạc, bền vững và thấm đẫm hồn Việt.
Giữ hồn quê và nâng tầm kinh tế ở xã Bình Minh

Giữ hồn quê và nâng tầm kinh tế ở xã Bình Minh

LNV - Nằm ở phía Tây Nam Hà Nội, xã Bình Minh đang nổi lên như một điểm sáng về phát triển nông nghiệp sinh thái kết hợp với làng nghề truyền thống.
Làng nghề chế biến cá khô Gia Thuận: Giữ hồn truyền thống, mở hướng phát triển bền vững

Làng nghề chế biến cá khô Gia Thuận: Giữ hồn truyền thống, mở hướng phát triển bền vững

LNV - Tại xã Gia Thuận, tỉnh Đồng Tháp, bên cạnh những cánh đồng lúa xanh bát ngát và những chuyến tàu đánh bắt hải sản tất bật, làng nghề chế biến cá khô đã hình thành và phát triển từ nhiều năm nay, trở thành một trong những ngành nghề mũi nhọn góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương. Không chỉ là nét văn hóa truyền thống, nghề chế biến cá khô còn đang mở ra những cơ hội mới về việc làm, nâng cao thu nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng.
Giữ hồn núi rừng qua đôi tay già làng Cơ Tu

Giữ hồn núi rừng qua đôi tay già làng Cơ Tu

LNV - Trong ngôi nhà sàn ba gian giữa núi rừng, già Bhling Bloó (70 tuổi, thôn Bhơ Hôồng, xã Sông Kôn, TP Đà Nẵng) vẫn cần mẫn bên bó tre, mây. Với ông, đan lát không chỉ là kế sinh nhai mà còn là cách để giữ lấy “cái gốc” của người Cơ Tu giữa nhịp sống hiện đại.
Giọt mắm Nam Ô và câu chuyện từ làng biển trăm năm tuổi

Giọt mắm Nam Ô và câu chuyện từ làng biển trăm năm tuổi

LNV - Giữa nhịp sống hiện đại của thành phố biển Đà Nẵng, làng cổ Nam Ô vẫn lặng lẽ giữ trong mình những giá trị văn hóa và nghề truyền thống hơn 700 năm tuổi. Nơi đây không chỉ nổi tiếng với cảnh quan thiên nhiên đặc sắc, những dấu tích lịch sử gắn với công chúa Huyền Trân, mà còn được biết đến là cái nôi của nghề làm nước mắm – một di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, niềm tự hào của cư dân miền biển.
Khát vọng phát triển từ làng nghề truyền thống đến trung tâm công nghiệp

Khát vọng phát triển từ làng nghề truyền thống đến trung tâm công nghiệp

LNV - Trong bối cảnh đô thị hóa và hội nhập, Tây Phương đang từng bước đổi mới, phát huy thế mạnh làng nghề gắn với phát triển du lịch, đồng thời mở rộng không gian công nghiệp và dịch vụ, hướng tới trở thành một trung tâm kinh tế - văn hóa quan trọng của Thủ đô.
Giữ hồn làng nghề bánh đa nem trăm năm tuổi ở Thổ Hà

Giữ hồn làng nghề bánh đa nem trăm năm tuổi ở Thổ Hà

LNV - Nằm ven sông Cầu hiền hòa, làng Thổ Hà (phường Vân Hà, tỉnh Bắc Ninh) từ lâu đã nổi tiếng khắp trong và ngoài nước với nghề làm bánh đa nem. Nghề đã tồn tại hàng trăm năm, trở thành nét văn hóa đặc trưng và là niềm tự hào của người dân địa phương.
Sức sống mới cho thủ công mỹ nghệ Thủ đô từ thị trường nội địa

Sức sống mới cho thủ công mỹ nghệ Thủ đô từ thị trường nội địa

LNV - Thủ công mỹ nghệ từ lâu được coi là một trong những ngành nghề truyền thống đặc sắc nhất của Thủ đô Hà Nội. Không chỉ mang đậm giá trị văn hóa, lịch sử, sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn góp phần quan trọng trong cơ cấu kinh tế nông thôn và xuất khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường quốc tế nhiều biến động, nhu cầu tiêu dùng trong nước đang trở thành một “nguồn lực mềm” mạnh mẽ, mở ra sức sống mới cho ngành thủ công mỹ nghệ Thủ đô.
Xem thêm
Mới nhất Đọc nhiều
Sản phẩm OCOP Cao Bằng vươn xa nhờ thương mại điện tử

Sản phẩm OCOP Cao Bằng vươn xa nhờ thương mại điện tử

OVN - Cao Bằng hiện có 174 sản phẩm OCOP được công nhận, trong đó 28 sản phẩm đã chính thức có mặt trên sàn thương mại điện tử buudien.vn. Đây là bước đi quan trọng giúp sản phẩm nông sản địa phương tiếp cận người tiêu dùng cả nước, đồng thời mở ra hướng
Thúc đẩy chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp, môi trường

Thúc đẩy chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp, môi trường

LNV - Chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo đang trở thành động lực quan trọng để nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và yêu cầu hội nhập.
Khai mạc phiên chợ nông sản đặc sản 2025 tại Hà Nội

Khai mạc phiên chợ nông sản đặc sản 2025 tại Hà Nội

LNV - Sáng 18/9, tại Khu Hội chợ Triển lãm giao dịch Kinh tế và Thương mại (số 489 Hoàng Quốc Việt, Hà Nội), Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Trung tâm Xúc tiến thương mại Nông nghiệp tổ chức Phiên chợ Nông sản, Đặc sản vùng miền năm 2025, kết hợp Diễn đàn “Chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo trong phát triển nông nghiệp và bảo vệ môi trường”.
Xã Hưng Đạo (TP Hà Nội): Tự lực tự cường khắc phục khó khăn trong chuyển đổi chính quyền hai cấp

Xã Hưng Đạo (TP Hà Nội): Tự lực tự cường khắc phục khó khăn trong chuyển đổi chính quyền hai cấp

LNV - Xã Hưng Đạo nằm ở phía Tây Nam thủ đô Hà Nội. Hưng Đạo được sáp nhập từ diện tích và dân số 5 xã thuộc huyện Quốc Oai (cũ) bao gồm: Đồng Quang, Tân Phú, Đại Thành, Tân Hòa, Cộng Hòa. Hiện Hưng Đạo có diện tích 24,90km2; Dân số 49.357 người.
Kiểm tra chặt chẽ để đảm bảo an toàn thực phẩm Tết Trung thu 2025

Kiểm tra chặt chẽ để đảm bảo an toàn thực phẩm Tết Trung thu 2025

LNV - Trong dịp Tết Trung thu năm nay, lực lượng Quản lý thị trường Hà Nội đồng loạt ra quân kiểm tra, kiểm soát thị trường, đặc biệt là các cơ sở sản xuất, kinh doanh bánh trung thu. Chỉ sau ít ngày triển khai, nhiều vụ việc vi phạm đã bị phát hiện, góp
Giao diện di động